ĐIỀU CẦN BIẾT TRƯỚC KHI KHỞI LUYỆN NỘI CÔNG
Có người mò mẫm tập luyện Nội Công cũng
thành công, nhưng những người này trả giá hơi mắc vì đôi khi bản thân bị bệnh
tật hoặc mất thì giờ quá nhiều.
Người có sự dẫn dắt, chỉ điểm của bậc Sư
phụ thời sự thành công đến bảo đảm hơn và không có gì xa vời, nguy
hiểm.
Quý
học giả, môn sinh muốn tham luyện Nội Công theo đường
lối của Soạn giả (soạn giả đã luyện thành công thật sự biểu diễn được những công
phu đích thực) thời phải thuộc lòng các điều chỉ sau đây. Nhỡ không tiến bộ hay
gặp điều bất trắc phải thông báo cho Soạn giả để kịp thời cứu vãn.
1.
Trước nhất phải học
thuộc Nội Công Tâm Pháp, tức cách Phu tọa dẫn nạp Khí (tức hơi thở).
2.
Biết rành các huyệt đạo
nằm trên đường Châu Thiên thuộc hai kinh Nhâm Đốc để dẫn khí Sơ bộ.
3.
Biết 12 phép tập gồm có
210 lần tập (vận khí). Mỗi lần vận khí là 20 giây đồng hồ, cộng 3 phút nghỉ giữa
các phép với 15 phút Điều Tức là hai giờ tập. Mỗi ngày tập một lần vào lúc bình
minh.
4.
Biết bài Ngũ Hành Quyền
có 110 động tác, nhịp tập 16 giây mỗi động tác cộng lại là 30 phút cho toàn bài.
5.
Khi thành thuộc thì mỗi
khi ôn luyện:
· 12 thế, chỉ tập 9 lần mỗi thế, thời gian
nghỉ giữa mỗi phép tập là 1 phút, thời gian một lần tập là 10 giây. Cộng lại gổm
30 tròn không có lẻ.
· Bài 110 thế, thu
lại còn 3 giây mỗi động tác thành toàn bài thao luyện vừa mất 5 phút 5 giây đồng
hồ.
6.
Khi tập xong nghỉ 10
phút cho ráo mồ hôi rồi tắm bằng nước lạnh.
Điều sau cùng là học giả nên giảm các chất
kích thích trong thời gian luyện tập, cùng tránh gần nữ sắc mới thành
công.
ĐIỀU CẦN BIẾT TRƯỚC KHI LUYỆN NỘI
CÔNG
Nhiều bậc sư phụ tân thời đã bày vẽ cho môn
đồ của họ những nguyên tắc luyện Nội công một cách QUÁ ĐƠN GIẢN, để rồi những
môn đồ yêu quí có gia công hàng nhiều năm tháng cũng chẳng đến đâu. Cũng theo
chiều hướng nhằm giản dị hóa những bài giảng về phép tu luyện Nội Công, nhiều
tác giả chỉ trình bày sơ lược vài phép tập luyên ĐƠN SƠ, rồi những người tự
luyện tưởng chừng như mình lãnh hội được chân truyền….mà thật ra mọi người đã
hàm hồ không ai nắm được yếu quyết về cách tu luyện. Thế rồi với thời gian trôi
qua đi không mấy người tu luyện Nội công mà thành đạt mỹ mãn, hoặc dã vài bậc có
thành tựu cũng đã phải vất vả trăm phần. Con số quá lớn những người không thành
tựu công phu lần lần đi vào đường mất tin tưởng những Bí Quyết. Thật là tội nghiệp, họ có biết đâu rằng chính họ chưa có duyên lành
để được gặp bậc chân sư hay phước số gặp cuốn sách quý.
Ở
đây, tôi xin nhắc lại một lần nữa là những người tự luyện nội công theo sách nầy trước nhất phải thuộc lòng những điều trong mục
nầy rồi mới được phép học tới bài tập kế tiếp.
Làm thế nào để biết là mình đã thuộc
bài? Khi nào học viên
có thể thò tay chỉ đúng bất kỳ một cơ quan nào trong
người của mình hoặc người đứng trước mặt mình lúc trí tưởng đến trong óc. Có như thế thì mới lãnh hội được những điều sắp học
tới. Muốn được như thế thì phải năng vẽ hình về Cơ Thể
học. Đường đi của các Kinh Mach, sau hết là theo
đúng nguyên tắc về sinh lý thiên nhiên rồi mới bắt đầu luyện tập.
Người nào không làm được những điều trình
bày sau đây thì dù có luyện tập cuồng nhiệt đến đâu cũng khó đạt kết
quả.
A.
KHÁI LƯỢC VỀ CƠ THỂ
NGƯỜI TA:
Ai cũng biết thân thể người ta gồm ba phần:
Đầu, Mình và Tay Chân. Trong đầu có não là trung tâm quan
trọng nhất điều khiển mọi cơ quan trên toàn châu thân. Não nằm trên và
nối liền bởi một sợi Tủy sống nằm trong cột xương sống từ sau ót chỗ đốt xương
cổ thứ nhất (ngửa đầu ra sau lấy ngón tay cái sờ ngay
chỗ hỏm sâu nhất là chính thị) chạy dài xuống tới xương cùn (không tính bốn đốt
xương cùn rời ra). Xương sống có 34 đốt, tính từ trên xuống
gồm bảy đốt xương cổ (cúi đầu xuống trước dùng ngón trỏ và giữa mò sau chân cổ
ngang bắp thịt nối liền cổ và vai thấy khớp hở nhiều (dài) thì đó là khoảng giữa
hai khớp xương cổ thứ bảy và đốt xương sống thứ nhất). Đốt xương sống thứ
12 tức đốt xương sống cuối cùng là gốc của chiếc sườn non cuối cùng, và đốt
xương hông thứ năm tức xương hông cuối cùng nằm ngay chỗ hỏm xuống ngang thắc
lưng. Nếu đặt chưởng căn tại chỗ hỏm nầy rồi úp bàn tay
lên ngay rãnh xương sống thì đầu ngón trỏ chỉ đúng đốt xương hông thứ nhất. Mỗi
đốt xương sống đều có những quan yếu riêng biệt liên hệ với ngũ tạng trong người (sẽ nói rõ trong mục B).
(Hình 1 và 2)
Nhận diện từ phía trước, từ trên xuống phần
lộ ra ngoài như mắt, mũi, miệng, cằm, chỗ hỏm ngực, rún, hạ bộ (gồm toần bộ dù
Âm và Dương của nam, nữ) chót hết là hậu môn. Khi thân hình đứng ngay thẳng thì
cằm sẽ ngang với đốt xương cổ thứ tư, cuống trái tim nằm ngay hỏm ngực phần đít
(phần nhọn) nằm về bên trái cột xương sống ngang với xương sườn thứ ba nếu từ
dưới đếm lên, đuôi và cuống tim nằm theo đường thẳng 45 độ so với cột xương sống
thẳng đứng. Cuống tim có hai mạch máu lớn Động và Tĩnh
mạch. Hai mạch chánh nầy chia thành hai nhánh cộng chung là 4 nhánh ăn liền sang
hai cuống phổi nằm hai bên trái phải của trái tim, ngoài ra 2 đôi mạch máu phân
hai bên cột xương cổ chạỵ lên não và hai mạch chánh chạy xuống hạ bàn, hai mạch
song song nhau bên phải là Tĩnh mạch, bên trái là Động mạch, hai mạch phân làm
đôi thành 2 đôi tại dốt xương hông cuối cùng để tỏa xuống hai chân trái
phải. Trái tim đè trên một màn mỏng gọi là cách mô
(chấn thủy?). Dưới màn cách mô bên phải là lá gan lớn nằm thòng xuống tới đầu
xương sườn cút hay sườn non. Nếu thóp bụng lại thấy chỗ
hỏm vô, dùng mũi bàn tay bóp xéo lên là đụng lá gan
rồi. Ngang lá gan về bên trái có một lá Tỳ hay lá lách lá mía cũng là nó. Vì nó
nhỏ nên thò tay sâu hơn trong be sườn xéo lên mới đụng
được. Đôi cuống của Gan và Tỳ ăn với hai mạch chạy từ tim xuống. Ngang đốt xương hông thứ nhất hai bên cột xương có
hai trái Thận. Đôi cuống thận cũng ăn vào hai mạch chánh từ cuống tim xuống. Thận nằm sát sau nên phải ển lưng tới trước, lấy
ngón tay cái nắm chỗ hỏm dưới be sườn non sau hông mới
chạm được thận. Phía trước Thận bên trái ngang với lá gan một túi lớn cân bằng
với lá gan bên phải. Phình bụng ra, chỗ cao đầu tiên từ trên xuống phía bên trái
dưới đuôi trái tim là cuống bao tử, chỗ no tròn lên
đích thị là phần trên của bao tử rồi. Dưới dạ dày là một xâu ruột già đỡ lấy bao
tử và bao quanh đùm ruột non. Dưới
rún một tấc tây là bọng đái, và cuối cùng bộ phận lộ ra đã nói ở
trên. Trên đây là vị trí các bộ phận phía trước con người mà người học võ
thuật phải biết để quyết thắng đối phương hay tự phòng ngự.
(Hình 3 và Hình 4)
Ngoài ra các bộ phận lộ ra bên ngoài như
tay chân thì vị trí ra sao ai cũng rõ nên soạn giả
không nói tới.
B.
VÒNG CHÂU THIÊN TRÊN
HAI KINH NHÂM ĐỐC:
Học Nội Công lấy Phu tọa điều tức làm căn
bản, kế đến mới học cách vận hành khí lực phát ra mọi phần trong cơ thể. Thứ đến học cách phát lực đối địch người ngoài. Ấy là BA giai
đoạn tuần tự nhi tiến không có cách nào khác hơn được,
mà có ai làm khác tất là không đúng phương pháp chánh tông của Thiếu
Lâm.
Nhưng cho đến nay, nhiều sách vở, tài liệu
của nhiều bang phái bên Hồng Kông, Đài Loan, v..v… đều
viết về Nội công một cách mơ hồ làm học viên tự luyện không có cách nào thành
tựu được dù chịu khó bỏ công tu luyện. Tệ tác giả không rõ các cao sư tác giả
hải ngoại có ý dấu diếm hay vô tình không nêu rõ một phương pháp luyện tập cho
hậu học có đường lối nương theo. Còn như các danh sư ở
xứa Giao Chỉ ta thì có biệt lệ là Tâm truyền hoặc giả Bí truyền cho vài đồ đệ
thân tín nhất theo phương pháp riêng biệt không có sách
vở nên chi cho đến nay vấn đề cũng chưa được khai sáng mà chỉ nghe nói suông mà
thôi.
Vậy từ nay môn sinh độc giả hậu học đệ tử
không phải tìm kiếm đâu xa, mà ở đây tác giả đã trình bày đầy đủ cách thức rèn
luyện thành công, và khi thành công rồi thì cũng làm thầy giảng dạy để người
khác làm được như chính mình. Làm công việc nầy, môn sinh đệ tử độc giả học viên
cám ơn thì tác giả cũng có chút vui, còn các bậc Võ sư cổ lậu sợ người khác (hậu
sinh) biết phương pháp sẽ luyện hơn mình mà trách cứ thì tôi cũng xin đành làm
ngơ. Có điều xin cùng thưa với các vị là cái tinh thần ích kỷ xưa cổ ấy các nước
văn minh người ta đã vứt vỏ cả trăm năm rồi nên chi dân tộc người ta tiến bộ,
mức sống người ta cao, đời người ta vui tươi hạnh phúc, còn như quý vị thì mãi
co ro dấu diếm cái hiểu biết nhỏ nhen của mình nên suốt đời vẫn khổ. Tội nghiệp!
Tội nghiệp! Tre già măng mọc là lẽ dương nhiên, hậu sinh hay
hơn tiền bối là điều đáng mừng và cũng không ngoài luật tiến hóa của thiên
nhiên. Xin quý vị bình tâm suy nghĩ.
Ba giai đoạn tuần tự nhi tiến trong việc tu rèn Nội Công Thiếu Lâm Tự thì việc
điều tức là khởi đầu việc này tác giả diễn tả tỉ mỉ trong chương thứ hai
(II). Khi đã thực hành được phép thở đúng sách thì học cách đưa hơi thở (khí)
đến các bộ phận trong người sẽ học ở chương ba (III) v..v…. Ở đây nên hiểu rõ Vòng Châu Thiên là
đường sẽ dẫn khí lực đi qua trong phép điều tức mà từ sơ khởi (sơ học) đến lúc
đại thành cũng cần dùng đến. Nếu không phải võ gia,
người phàm luyện nội phần này cũng thành trường sinh vô bệnh hạnh phúc vô biên
rồi vậy. Nhưng có điều muốn luyện thành thì phải hiểu
rõ mới luyện được. Độc giả nên ghi
nhớ.
VÒNG CHÂU THIÊN:
Nếu định nghĩa Vòng Châu Thiên thì có khi
dùng chữ nghĩa làm lệch trí của độc giả, thế nên hiểu và hình dung Vòng Châu
Thiên là một vòng hình bầu dục trên đó có một khởi điểm hữu hình tiếp nhận khí
trời mà cũng là chung điểm hoàn trả khí đã xài rồi cho thiên nhiên. Trên đường
vòng hình bầu dục có nhiều trạm (huyệt) để khí nghỉ ngơi tiêu tán, chỗ lớn chỗ
nhỏ không đều, nhiệm vụ và công ích của mỗi trạm cũng khác nhau, nhưng chung qui đơn giản là nơi kiểm nhận khí có đi qua vậy
thôi.
Căn cứ theo Y học Đông Phương 5.000 năm
(Nội Công là môn học có tính cách Y học hơn là võ thuật, nhưng về sau các võ gia
phối hợp được với Võ thuật thành ra hiệu dụng của võ thuật mới thành môn học lợi
ích Tâm Sinh Lý siêu đẳng, giúp phàm nhân trường sinh hạnh phúc, bậc chân tu đạo
thành).
Nhìn trên hình bầu dục, chỗ có vòng tròn
nhỏ đánh dấu mở tức là MŨI (nơi khí trời chui vào và thoát ra) rồi đi xuống dần
theo từng chặn một là Yết hầu, Cữu vĩ, Đan điền, chót hết là Hội âm, và kế đó là
Trương cường, đi dần lên là Mạng môn, khúc giữa so với bên phải thì thấp hơn gặp
trạm Linh đài, kế trên Thần đạo, lên thêm ngang Yết hầu là Đại truy, ngang mũi
là Á môn, lên thêm là Phong phủ, Não bộ. Trên đỉnh cao tận cùng đối với Trương
cường là Bá hội, rồi lần về nửa vòng trước là ấn đường xuống thêm là tới
mũi…
Cứ khởi sự, mắt học viên môn sinh dò theo mũi tên từ chữ MŨI xuống dần tới tận Trương Cường rồi
lộn lên tới Bá Hội lại vòng xuống MŨI. Nhớ rõ từng nơi từng
trạm và tên trạm (huyệt) trên vòng Châu thiên. Mắt dò đi thật chậm trong
khi chiếu mắt trên đường vòng thì không thấy chi khác ngoài đường chỉ nhỏ xíu,
hễ mắt dò tới trạm nào thì mắt chỉ thấy trạm đó với cái tên của nó mà thôi, dần
dần mà dò cho đủ vòng thì ngưng lại một hai giây đồng hồ để nháy mắt rồi lại
tiếp tục dò xuống, v…v…
Nếu học viên không thể chuyên chú được thì
dùng cây viết hay cành cây, que diêm, v..v... vạch theo
Vòng Châu Thiên cũng từ từ…
Khi nào đạt thành kết quả không cần có Vòng
Châu Thiên trước mắt mà tưởng tượng vẫn thấy được và dùng tư tưởng dẫn mắt đi từ
từ trên Vòng Châu Thiên được thì bắt đầu dò Vòng Châu Thiên trên thân thể của
chính mình (học viên). Khi nào xác nhận đúng mọi chi tiết trên
Vòng Châu Thiên trên thân thể thì có thể bắt đầu tập Điều tức được rồi
vậy.
Trước khi dẫn ý, lấy mắt dò lên đường châu
thiên thân thể phải biết rành về hai Kinh NHÂM KINH và ĐỐC KINH, tức là hai nửa
Vòng Châu Thiên trên thân thể.
NHÂM KINH
Ở đây chúng ta không cần hiểu nhiều quá về
cách cấu tạo Kinh Lạc trong thân thể con người mà chỉ cần học hiểu về hai Kinh
Nhâm Đốc là đủ để áp dụng công thức luyện nội công. Nhưng tưởng cũng cần biết sơ
Kinh, Mạch, Lạc là những gì để dễ bề nhận định cũng như thu thập những bài học trong tương lai về cơ thể thuộc môn
học Nội Công. KINH là những đường dây nối liền những điểm cảm ứng (huyệt) nầy
đến những điểm cảm ứng khác trong châu thân theo một
đường dọc.
LẠC là những đường nối ngang từ KINH nầy
sang KINH khác, lẽ tất nhiên Lạc là những đường Kinh nhỏ nếu so với sông ngòi
thì kinh là sông mà Lạc là rạch, suối. Có điều là KINH thì chạy theo hang dọc còn LẠC thì chạy theo hàng ngang để nối liền
các KINH với nhau.
MẠCH là những ống dẫn HUYẾT từ TIM chạy ra
khắp châu thân và ngược lại. MẠCH có hai loại ĐỘNG và TĨNH, nói nôm
na là GÂN MÁU. Đặc biệt là khoa COI MẠCH của Đông
Phương chỉ lấy 3 ngón tay để nhẹ lên cổ tay bệnh nhân là biết được Thịnh Suy của
cơ thể cùng các bệnh trạng Tâm Sinh Lý, kể cũng thật là tài tình vậy. Mà thật
vậy, khoa xem mạch trị liệu Đông Phương của Ông Bà xưa thật là vi diệu. Người thầy thuốc đúng nghĩ gọi là
Lương Y thì mới thể hiện được khoa học kỳ diệu nầy.
HUYỆT là chỗ cảm có cảm ứng hiện lên da
trên thân thể, mỗi chỗ đều có liên quan với một hay nhiều cơ quan trong người
như LỤC PHỦ, NGŨ TẠNG. Những chỗ cảm ứng đó được đường dây nối
liền với nhau trên đường dọc thì dây đó gọi là Kinh, mà nối ngang gọi là
Lạc. Điểm cảm ứng (biết đau, tê, v..v… nhạy) gọi là
huyệt. Huyệt không nhất thiết nằm gần trên da, có khi ẩn sâu
dưới da trong gân thịt, muốn chạm đến để gây phản ứng phải hội đủ điều kiện về
vận tốc và sức nặng (mạnh) trên diện tích để đủ sức làm rung động. Do đó,
học HUYỆT thì dễ mà học ĐIỂM HUYỆT hại người không dễ. (XEM
CUỐN ĐIỂM HUYỆT VÀ GIẢI HUYỆT CÙNG TÁC GIẢ SẮP IN). Ngoài ra các Huyệt
còn (tùy theo huyệt) là chỗ Thần Khí giao nhau
để điều hòa cơ thể làm trí tuệ Thông linh, Đạo Tâm khai mở như Huyệt Bá Hội trên
đỉnh đầu. Trong cơ thể có 14 KINH biểu diễn và điều hòa mọi biến động về Thịnh
Suy của con người. Sau đây ta chỉ học hai Kinh có liên hệ mật
thiết hơn hết trong việc rèn luyện Nội Công mà thôi.
Nhâm KINH là đường Kinh nối liền từ chỗ hõm
dưới giữa Cằm giữa lằn chỉ từ Dịch hoàn (biều dái, nếu phái nữ thì chót Âm vật)
đến Hậu môn (Lỗ đít). Khoa Huyệt học kể huyệt từ dưới lên chạy
dài theo đường chỉ phân chia bán phần cơ thể trước bụng
(theo lằn lông bụng ngực chỉ dịch hoàn, âm vật lên đến dưới Cằm) gồm 24
Huyệt:
1) Hội âm 2) Khúc cốt 3) Trung Cực 4) Đan
điền hay Quang Nguyên 5) Thạch môn 6) Khí hải 7) Âm giao 8) Thần khuyết 9) Thủy
phần 10) Hạ uyển 11) Kiên lý 12) Trung uyển 13) Thượng uyển 14) Cự khuyết 15)
Cửu vĩ 16) Trung đình 17) Chien trung 18) Ngọc đường 19) Tử cung 20) Hoa cái 21)
Triền cơ 22) thiên độc 23) Liêm tuyền 24) Thừa tương.
ĐỐC KINH là đường kính chạy từ đỉnh xương cùn
(huyệt Hải để hay Trương cường) lên đến đỉnh đầu trổ ra trước mặt vượt qua huyệt
Toàn trúc hay Mi tâm (huyệt nầy thuộc Túc Thái dương Bàng quang kinh chớ
không phải thuộc Đốc Kinh nhưng nó nằm chính giữa đường ranh của chân mày nếu
dùng ngón tay luyện Thiết sa chưởng hay Nhất chỉ thiền hoặc đầu ngón tay co lại
thành ngón tay quỉ mà diểm nhằm thì chỗ bị diểm nổi lên một cục tròn bằng ngón
tay cái màu xanh tím như cục bứu huyết, nạn nhân xây xẩm mặt mày ngã ra bất
tỉnh. Trường hợp chậm trễ trong việc chữa chạy tất tánh mạng
khó bảo toàn. Đây là một trọng huyệt chớ không phải tầm
thường. Xin xem cuốn Điểm và Giải Huyệt cùng tác giả sẽ rõ hơn) đến
trước rãnh dưới đầu mũi tới nướu răng hàm trên ngay lằn chỉ.
Tổng cộng là 28 Huyệt: 1) Trương cường hay
Hải để 2) Yêu du 3) Dương quan 4) Mạng môn 5) Huyền xu 6) Tích trung 7) Trung
xu 8) Cân súc 9) Chí dương- có sách viết là Chí đường 10) Linh đài 11) Thần
đạo 12) Thân trụ 13) Đào tạo 14) Đại truy – có sách viết Đại chùy 15) Á môn 16)
Phong phủ 17) Não hô 18) Cường gian 19) Hậu đãnh 20) Bá hội 21) Tiền đãnh 22)
Tính hội – có sách viết Đỉnh hội 23) Thượng tinh 24) Thần đình 25) Tố liêu 26)
Thủy cấu hay Nhân trung huyệt là danh từ quen gọi của giới nghề võ 27) Đài
đoan 28) Ngân giao.
(Hình 7)
Các tên và chi tiết của hai Kinh trên đây
độc giả học viên không cần nhớ hết mà chỉ ghi nhận đại khái, và chỉ nên nhớ
những huyệt có ghi trong vòng Châu thiên thuộc Hình 5 để dẫn khí lực khi tập
điều tức. Quý vị học viên xem tiếp Cách Phu tọa và Điều tức ở
Chương Thứ II.
C.
SINH LÝ THIÊN
NHIÊN
Sinh động vật hễ thường được tự nhiên đúng
đạo thường thời đặng trường thọ, trái lại tất thảm họa xảy đến mà mạng yểu hoặc
đau khổ bạc nhược. Bẩm
sinh nếu tiên thiên được sung, túc thời hậu thiên biết bồi bổ thời không lo gì
(mới sinh ra đã khỏe mạnh thời nuôi nấng đúng cách sau không lo gì chết non), ấy
là dụng đạo thường, nhưng nhỡ ra tiên thiên bất túc, mới sinh ra đã đau yếu ọp
ẹp thì hậu thiên phải bổ dưỡng kỹ càng mới có nhiều hy vọng. Trường hợp này cũng
có nhiều sự rủi may không thể tiên liệu như làm toán được. Thế mới biết Sinh Tử
tuy hai chữ đơn giản mà chẳng đơn giản chút nào, đời đời kiếp kiếp vẫn là mối lo
bở vía của con người.
Duy có bậc thầy về Nội Công thời không chê
ai, người nào ông cũng có thể độ cho đặng trường sinh hạnh phúc, cái chết dến
với người luyện Nội Công như trái chin cây không có chi là sợ hãi đau buồn. Bởi
vì trên nguyên tắc đời sống của bậc thầy đã gột rửa hết những điều không thích
ứng với đời sống bản thân (vật chất cũng như tinh thần luôn luôn lành mạnh trong
sáng, thế thời như một tấm gương trong suốt nên mọi vật đều được trông thấy, đạo
Phật gọi là bức màn vô minh đã vén lên. Trong đời thường nhật, họ (những người
luyện Nội công) thích nghi với hoàn cảnh từ mọi vấn đề (ăn uống, tắm rửa, ngủ nghê, trang điểm bản thân cùng điều hòa
sinh lý nam nữ)! Thật là đơn giản “có thể nói như thế khi người ta được biết về
công thức sống của người luyện Nội công, rồi người ta vô cùng ngạc nhiên để thốt
ra bốn chữ trên, thế mà nào ai ngờ đâu. Nhưng đó là sự
thật. Chẳng những những nhà Nội Công sống lâu hạnh phúc hơn tất cả chúng
sinh (kể cả ông hoàng, bà chúa, phu nhân, bá tước công hầu, hào phú bạc đụn muôn
xe, tỷ phú, danh nhân, chánh trị gia cái gì, v..v.. và
v…v…cũng ăn đứt luôn các Tăng Ni, Tu, Cư sĩ, khất hay không Khất sĩ có chùa hay
không có chùa, Linh mục hay cái gì lớn hơn Bà phước, v..v..mà thiếu tu rèn Nội công, thiếu
đức độ Tâm tịnh vô biên). Đạt được Nội Công Vô thượng thời thân đặng an bình,
thần trí thảnh thơi, chưa đi đã tới, chưa nói đã biết, không tranh mà thắng,
v..v… nhược bằng hạng sơ học tiểu thành thời sức mạnh
viên niên ít người sánh kịp, trí hóa nhập thần, làm gì cũng đặng thành quả mỹ
mãn, v..v… Việc thành quả tươi tốt kể
ra như thần thoại hoang đường mà là sự thật tưởng không có gì thật hơn được nữa
thế mà vỏn vẹn trong vài công thức mà thôi. Xưa thời
bậc thầy chọn người xem tướng coi ai là hoặc sau có thể trở thành những bậc vô
lậu mới chịu tâm truyền, đó tưởng cũng không phải là chuyện quá
đáng. Nhưng đối với thời đại như ngày hôm nay thì càng phổ biến rộng rãi
chừng nào lại càng hay càng tốt. Thế nên tác giả không câu nệ mà trình bày vài
nguyên tác đơn giản cổ hủ để chư vị độc giả học viên
môn sinh nghiên cứu học luyện.
Muốn luyện Nội Công phải theo điều kiện ẩm thực, v…v… như sau đây, ít ra cũng trong
thời gian tu luyện cho đến khi thành công rồi mới được giảm lần kỷ
luật:
ĂN:
1) Tuyệt đối không ăn thực phẩm động vật;
2) Không ăn các
vật hăng manh, cay nóng và chua chát thái quá;
3) Không được uống các thứ rượu dù mạnh, dù
nhẹ và các thứ nước ngọt, đường hoặc đường hóa học.
Ăn cùng như uống phải có chừng mực (2 hoặc 3
bữa một ngày), đúng giờ và không ăn uống no nê quá độ mà cũng không nên nhịn
đói.
NGỦ:
Giấc ngủ đúng mức là phương tiện duy nhất
làm phục hồi và tăng tích sức mạnh của con người, sau giấc ngủ người ta thấy
thoải mái và sự hăng say làm việc, yêu đời dù rằng trước đó sự mỏi mệt vì lao
lực làm họ kiệt sức. Giấc ngủ không mơ mộng sẽ thay đổi hoàn
toàn nguồn sức mạnh cũ, hay gọi là lấy lại đầy đủ chân khí. Vì trong giấc
ngủ nguồn sức mạnh (chân khí) được tự do tuôn chuyển trong châu thân không bị bó
buộc phục vụ cho các động tác của thân thể cùng các tạp niệm thông
thường.
Nói một cách tổng quát là giấc ngủ có đủ
yếu tố tái tạo sức lực cho mọi người sau một thời gian lao lực trong ngày để đủ tiếp tục một ngày lao lực bằng sự
hăng hái nồng nhiệt. Đối với võ gia tu luyện Nội công giấc ngủ
luôn luôn được chú trọng đặc biệt vì họ đã biết rõ những lợi ích của
nó. Ngoài ra các võ gia còn những phương thức hỗ trợ giấc ngủ bình thường
để tạo điều kiện cho nội lực chân nguyên phát sinh tăng tiến trong từng giấc ngủ
thiên nhiên. Người xưa ca ngợi “ăn được ngủ
được là tiên” âu là chỉ cho những hành gia về nội công vậy. Tác giả có thể
quyết là trong đời chỉ có người thành công trên con đường luyện Nội công mới
biết cái cần ích và thú vị của giấc ngủ cùng sự khoái lạc trong sự ăn uống đúng
cách. Nếu có vị chân tu nào mới vừa chợp mắt mà mở ra đã thấy thời gian trôi qua
7 giờ đồng hồ tưởng chừng như chưa ngủ, đầu óc vẫn tinh minh thân thể nhẹ nhàng,
miệng, lưỡi, mũi thơm sạch thì vị ấy biết được giấc ngủ của người tu luyện Nội
công.
Riêng tác giả hơn nửa đời người tập luyện
võ công, cho đến nay vẫn chưa hề có lần ngọa bệnh; hơn mười năm học phép Nội
công mỗi đên chợp mắt mở ra là bình minh vẫn tưởng mình chưa ngủ mà thật ra thì
nhục thân đã thu liễm ngót 7 giờ của vũ trụ rồi. Một điều tác giả do tu tập Nội
công mà được xin nói để làm vui độc giả là sau khi tu luyện Nội công hơn ba năm
thì tai tác giả tự nhiên thính hơn bình thường, có thể nghe và phân biệt tiếng
động rất xa, mắt cũng sáng hơn. Cho đến nay thì mắt nhìn ra có
ngời nên khi tập trung ý để nhìn ai thì người đó quay đi chỗ khác không thể nhìn
thẳng vào mắt tác giả được. Các đệ tử của tác giả bảo
là nhìn vào mắt thầy thấy thâm tâm hồi hộp, xao xuyến, nếu cố gắng thì như bị
mất sức lực nên không thể nào nhìn được. Còn như tác
giả tập trung ý lực vào mắt mà nhìn con chó con mèo thì chúng cũng nhìn lại rồi
thoáng cái chúng cúp đuôi chạy đi như bị đuổi đánh vậy. Mũi tác giả biết được mùi rất xa dù mùi (bất kỳ mùi gì) rất
nhẹ. Tác giả nhớ gần đây có lần lên non thăm thầy (ân sư của tác giả), đang đêm tác giả đang cùng thầy nhập định
thì chợt nghe xa xa có tiếng động rồi mùi hương thoang thoảng nhẹ nhàng. Cầm
lòng không đậu tác giả hỏi ân sư thì mới cho biết đó là
con sóc bạch đang phá cây Quỳnh Hoa của người ngoài hậu động. Cũng trong lần này, thầy tác giả có bảo tác giả đã đại khai Tam giác
là Thính giác, Thị giác và Khứu giác. Còn Vị giác, Xúc
giác và Thần giác tức Linh khí thì chưa được. Tác giả
nghe vậy cũng mừng nhưng có điều muốn hỏi mà không dám là tác giả cũng rất tế
nhị khi nếm các món ăn. Ngày nay tuổi trời đã lớn, tác giả lại trở về đạo
gốc là trường chay tuyệt dục (ăn chay trường không ăn
thịt cá động vật, không ăn nằm với đàn bà). Thế thời vị giác
muốn khai thông thì phải làm sao? Còn xúc giác nữa, tác giả sờ biết vật
nóng, lạnh, trơn, nhám, v…v… khi Niêm, Án quyền thủ của võ gia thiên hạ Đông Tây
biết đặng ý địch tới lui, công tả, kích hữu, trầm, thối, thật hư, v…v… thế mà
vẫn chưa được?... Riêng Thần giác hay Linh khí thì quả tình tác giả chưa đạt tới
thật, cái đó tác giả còn phải gia công tu tập vài mươi năm nữa họa chăng mới
khai thông được. Đó là giác quan thứ sáu mà người đời coi như
việc thiêng liêng vô thường.
Tác giả vui chuyện dẫn chứng công thành của
mình mà quên ý chính nhưng đoạn trên đây âu cũng là kinh nghiệm cá nhân có thể
giúp ích cho độc giả phần nào trên đường tu tập sau nầy.
Sau đây là các yếu quyết để tạo sức mạnh
trong giấc ngủ Nội công:
1.
Phòng ngủ phải
thoáng khí, cửa sổ được mở ra trong khi ngủ trong suốt bốn mùa tám tiết và cửa
sổ phải mở về hướng có gió trong sạch.
2.
Chỉ được ngủ sau bữa
cơm ba giờ đồng hồ. Những người thường cơm rượu no say thì không thể luyện tập
Nội công được, giấc ngủ đến với họ rất ư là mệt nhọc khổ sở. Hơi thởi của họ đầy
xú uế.
3.
Phòng ngủ phải được
yên tịnh không ai quấy rầy đánh thức lúc đang ngủ nửa chừng. Tiếng ồn ào chung quanh làm tâm thần người ngủ bị giao động sinh lực phân
tán không tích tụ được.
4.
Phải tắm rửa sạch sẽ
mình mẩy, răng miệng, thay đổi xiêm áo sạch sẽ rộng rãi nhẹ nhàng rồi làm các
động tác nới giãn toàn diện cơ thể, làm phép khẩu xỉ 100 lần để giãn các bắp
thịt mặt cùng hô hấp sâu thẳm rồi mới lên giường. (Xem phần phụ lục NỘI GIÃN
TOÀN DIỆN).
5.
Chiếc giường phải
phẳng không lót nệm dày làm lệch lạc gân mạch, trì trệ máu huyết. Người mới tập
Nội công nên nằm trên chiếc giường đặc biệt hay đúng hơn là một bộ ván gồm một
tấm ván chiều dài bằng thân người, chiều rộng cũng bằng tấm thân (hồi xưa tác
giả nằm trên tấm ván gõ lên nước lạnh như đá, nghe nói tấm gỗ đó có trên trăm
năm rồi) để tránh sự lăn trở khi ngủ. Nằm ngửa hai chân duỗi song song, hai bàn
tay úp trên bụng dưới (rún), cách nầy giúp ta kiểm soát
hơi thở có thật sự đưa tới bụng dưới hay chưa, hoặc hai tay để song song hai bên
thân mình. Trong trường hợp trở mình thì trở về bên phải, nghĩa là cánh tay phải bị thân bên phải đè lên, nhưng chỉ trở mình giây lát
rồi nằm ngửa lại mà ngủ. Nên nhớ là nằm ngủ đầu quay về hướng Bắc, chân hướng
Nam.
6.
Miệng ngậm
kín. Những người ngủ miệng mở trống chảy nước ra lại có tiếng kêu ọc…ọc, phì
phèo, phì phò, v..v… thì không mong gì sống lâu, khỏe
mạnh, và chắc chắn hơn hết là người ấy không thể nào là một người thông minh
dược.
7.
Bao giờ cũng ngủ
trước giờ nửa đêm để dậy trước 7 giờ sáng. Tác giả đã mấy mươi năm ngủ dậy luôn
luôn không quá 5 giờ sáng, sau khi làm vệ sinh tổng quát, Điều tức và luyện
quyền thì trời vừa mới bình minh. Nhờ thức sớm mà tác giả luôn luôn thấy, nghe
được những biến chuyển mới mẻ của vạn vật làm tâm hồn nhẹ nhàng phấn khởi bắt
đầu thụ hưởng một ngày mới tràn đầy tin tưởng.
8.
Trong mọi trường
hợp, luôn luôn để trống tâm hồn và nới lỏng thể xác bằng cách gạt bỏ mọi lục dục
thất tình (hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục) và dùng ý trí kiểm soát hơi thở sâu chậm
lưu nơi đan điền. Ấy là lực tích đan điền, thân thể trống không, trạng thái đại
thành rồi vậy.
SINH LÝ
NAM
NỮ:
Không có gì đáng buồn cười bằng những võ
gia, võ sinh miệng cứ bô bô khoa trương rằng mình luyện Nội công thành tựu, … và
khoác lác ra vẻ thầy đời lừa bịp hậu sinh, bằng hữu kém học, mà thật ra họ chưa
hề biết qua một yếu quyết căn bản nào về phép tu luyện nội công chính
tông. Nếu có chăng, họ chỉ nghe ai nói hoặc học lóm mớ lý
thuyết rồi bấm bụng đấu càng làm nhiều người tưởng thật đâm nể nang úy
kỵ.
Tác giả giúp quý vị một phương cách đơn
giản để nhận chân người có luyện nội công thật hay giả mà không bao giờ bị hắn
đánh lừa:
· Người có nội công tướng mạo khôi vĩ mà nhu hòa, mặt sáng bóng dù cho thân thể có gầy ốm đi
nữa, nhất là hai mắt sáng sòng sọc, dầu cố dấu đi cũng thường long lên nên khi
nhìn thẳng vào ai dù không giận mà cũng có uy (oai).
· Giọng nói khí trầm, có âm vang xa và ấm,
thường thì giọng lớn hơn người thường, họ nói một câu dài không ngừng để
thở. Nếu giọng có cố làm cho nhỏ đi thì âm thanh thật sắc nét, âm cũng vang xa,
khi thét lên gây chấn động làm người đứng gần khó chịu, đôi khi bất tĩnh. Người
có Nội công có thể diễn thuyết nhiều giờ liên tiếp không biết mệt, và dù thức
khuya giọng nói vẫn trầm hùng trong trẻo như thường chớ không bị rè đục như
người thường.
· Bụng dưới tròn nhẵn (láng), không có người
thành tựu nội công nào mà bụng teo như con ve đực. Cũng không nên lầm những
người ham ăn uống quá độ bụng to, mỡ dày như bụng
lợn. Người luyện nội công bụng chỉ to ở phần bụng dưới chỗ vực Đan điền. Nếu
người ấy cởi trần ta sẽ thấy phần bụng dưới thoi thóp nhẹ nhàng, đó là họ thở
bằng bụng đó. Người thường thở bằng ngực.
· Ngoài ra không kể người thành tựu nội công
da dẻ hồng hào tươi tốt phương phi, tuổi càng lớn trông càng oai nghi, quắc
thước. Duy cũng có một số vị chân tu vì suốt đời trì giới tuyệt thực nên cơ nhục
không được nở nang, nhưng tựu trung nhờ giữ được nguyên tinh nên da dẻ vẫn láng
bong (trừ khi già thì da nhăn).
· Một điều đáng lưu ý hơn là người thành công
Nội công tinh lực mạnh mẽ vô cùng nhưng họ không ham chuyện nam nữ. Những người
ham chuyện nam nữ thái quá thì không thể thành tựu Nội công, mà nếu có thành
chút ít rồi trong thời gian sau cũng không còn gì nữa. Tác giả nói về ánh sáng
của mắt mà quên nói có những hạng nam nhân cũng như nữ nhân đa tình dâm dật bẩm
sinh mắt cũng tự nhiên sáng long lanh, mới nhìn thoáng người ta có thể lầm tưởng
là họ thành tựu Nội công nhưng nhìn kỹ trong một giây thì không phải. Mắt kẻ dâm
dật đa tình tròng đen có nhiều nước như mắt con chó mực nên khi có ánh nắng hay
ánh đèn chiếu vào thấy lóng lánh. Thứ lóng lánh đó không có ngời mà cũng không
có uy, nhứt là con mắt dâm hay nháy, cùng hay nhìn xéo mà không thích nhìn thẳng
vào sự vật một cách thực tâm.
Sau hết là việc phải làm của người tu luyện
Nội công:
· Nếu trong thời kỳ đang luyện (tuổi nguơn
đồng nghĩa là chưa biết giao hợp thì càng hay) thì tuyệt đối không được giao
hoan với phụ nữ, đồng thời cũng cố gắng làm sao cho đừng để bị xuất tinh trong
thời gian nầy. Muốn được như vậy thì phải năng luyện tập cùng ăn uống điều hòa tinh thần hướng thượng thì không lo việc bị
xuất tinh trong lúc ngủ mê.
· Khi đã thành công thì cũng nên hạn chế giao
hoan. Tuổi dưới 30 thì mỗi tuần lễ chỉ nên giao hoan một lần thôi. Tuổi 30-40 từ
nửa tháng đến một tháng mới giao hợp một lần. Tuổi trên 40, 50, 60, 70, 80,
v..v… tưởng cũng nên tuyệt dục để bảo tồn tinh khí hầu
có được sống lâu đến trăm tuổi.
· Người nào thích giao hoan quá độ thì không
mong gì luyện Nội công được vì người đó bệnh rồi cần tới bác sĩ hoặc thầy thuốc
nhờ chữa trị.
Sau hết, người luyện Nội công nên ghi nhớ
gìn giữ TINH, KHÍ, THẦN cho đặng đầy đủ thời công lực mới đặng mỗi ngày càng
thêm tinh tiến. Kẻ mất TINH thì hai thứ còn lại cũng dời khỏi thân thể, vì Tinh chế
thành Khí mà Khí thì hóa thành Thần.
Chương II
BÀI TẬP NỘI CÔNG ĐẦU TIÊN
Nội công
lấy Phu tọa Điều tức làm căn bản vì chính nhờ Điều tức mà khí huyết lưu thông
điều hòa trong kinh mạch làm điều hoà mọi trạng thái do ngoại tại gây nên cho cơ
thể. Kế đến, Điều tức đem những luồng khí hỗn tạp do mũi thu liễm được của vũ trụ cùng Nguyên khí do ngũ cốc trong dạ
dày bốc lên phổi mà tán vào khắp cùng châu thân rồi đưa về tụ lại Đan điền. Hoặc
dã điều động hợp khí đưa đến một vùng, một bộ phận nào trong thân thể để tạo nên
tác động, kế đến thu về Đan điền. Đây
là giai đoạn chót của bài học về Nội công, vì rằng khi phát quyền, động chưởng,
xử chỉ mà đều dụng được khí lực để đả thương người thì đã đạt mục đích rồi
vậy. Nhưng muốn đạt tới trình độ nầy không phải một sớm một chiều mà
được, hay học tắt đôi tháng, trăm ngày mà thành mà phải gia công tuần tự luyện
cách Phu tọa, tức là ngồi đúng cách, rồi thở hút đúng cách, nghĩa là chuyển khí
theo vòng Châu thiên rồi đưa về Đan điền, đó gọi là dẫn và tụ khí. Sau khi thành
công trên vòng Châu thiên rồi thì trong thân như có con sông lớn chứa đầy nước,
bấy giờ hãy học cách tán khí, tức là phân tán nó ra tứ chi, ý tới đâu thì khí
tới đó. Ban đầu chỉ tưởng tượng chớ chưa thấy kết quả gì, nhưng sau nhờ phối hợp
với các thế tập gồm 12 thế tập Kính Lực ở bài tập Nội công thứ nhì nên khí đi
tới tận mọi nơi từ đầu ngón tay đến đầu ngón chân, v..v… Đến lúc này khí có luân chuyển theo tứ chi tùy từng thế tập, nhưng khí luân chuyển hãy còn
chậm chạp chưa thể nhất thời đả thương người được mà phải học cách xử dụng Nội
khí. Ấy là học bài Quyền chủ luyện KÌNH LỰC TINH KHÍ THẦN
trong bài luyện Nội công thứ ba. Khi nào luyện đúng và thuần thục các
động tác, khí lực chuyển lưu đúng mức thì mỗi cái động tay nhấc chân của môn sinh học viên đều có thể can hệ đến an
nguy của người ngoài rồi. Tới đây học viên đệ tử khá tự giữ gìn đạo đức phẩm
hạnh, chớ nên bạ đâu cũng động thủ thì họa hoạn không tránh khỏi, mà tác giả
cũng ân hận lắm vì đã gián tiếp giúp người hung
ác. Các môn sinh học viên đệ tử nên nhớ rằng mình giỏi còn có
người giỏi hơn, cậy tài mình giỏi thì ắt là không sớm thì chầy cũng bị họa tai,
tới lúc đó tác giả sư phụ cũng không có cách gì cứu giúp được.
Sau cùng, ở mức thượng thừa còn 12 phép
luyện Kình Lực Tinh Khí Thần Hợp nhất. Môn sinh mà luyện được
giai đoạn chót nầy thì đã lên hạng Đại sư rồi. Tưởng lúc đó tác giả đâu
còn đủ thẩm quyền lý luận vì tác giả cũng chẳng hơn gì học viên đại sư, may mắn
hơn là tác giả được học trước nên có thời gian thấm nhuần hơn, đó gọi là đi
trước một bước nên mọi sự đều có vẻ trầm trọng hơn các đại sư hậu học một chút
thôi.
Trong cuốn sách nầy, tác giả chỉ trình bày
đến Bài Tập Nội Công thứ ba, còn Bài Tập Nội Công sau cùng đợi ít lâu sau tác
giả sẽ phổ biến hoặc thêm vào phần sau của cuốn sách nầy trong kỳ tái bản, hoặc
tác giả in riêng thành một tập nhỏ gọn gồm các yếu quyết dành riêng tặng các môn
sinh học viên đã thành công hạng trung đẳng. Đó cũng có thể
nói là làm phần thưởng cho những môn sinh chuyên cần, cũng có thể xấu miệng mà
nói là tác giả dấu lại một chút để truyền riêng cho một số người có đức
độ.
Bây giờ hãy khởi sự học bài học Nội Công
Thứ Nhất:
PHÉP PHU TỌA:
Nói nôm na là cách
ngồi, một kiểu ngồi để thân mình mà phần chính là cột xương sống được thẳng đúng
với mặt đất. Có hai cách ngồi hay gọi là hai kiểu ngồi, ngồi xếp bằng chân trên
chân dưới, một cách ngồi của các người đàn ông nhà quê khi ngồi vào chiếu tiệc
trên bộ ván hay trên mặt đất. Người ta còn gọi cách ngồi nầy
là ngồi Bán già. Chữ bán già là chữ dùng chỉ cách ngồi theo nguyên tắc vừa trình bày trên nhưng ở đây do nhà sư biểu
diễn. Người nhà quê kêu tên xếp bằng là theo hình thế ngồi mà đặt tên, còn nhà
chùa thì đọc tên theo tiếng xứ Thiên Trúc tức là xứ Ấn Độ, nơi mà đức Tam Tạng,
một vị thần tăng đời nhà Đường bên Tàu cỡi ngựa vượt rặng Hy Mã Lạp Sơn cao gần
9.000m để sang thỉnh mấy bộ kinh trân quý như Kim Cang, Lăng Nghiêm, v..v… sau nước Tàu nhờ vào kinh điển vô thượng đó mà nảy sanh
nhiều vị Tổ Thiền truyền đời… Người nhà quê xứ ta gọi các người Ấn Độ là người
Chà Và tức con cháu đức Phật Thích Ca, người đã xây dựng một chủ thuyết lớn nhất
thế giới được hàng tỷ người trên thế giới ngưỡng mộ, tác giả các bộ kinh điển kể
trên…các chùa chiền tại Việt Nam cũng là Tông Chi của học thuyết do ngài truyền
ra.
Kiểu ngồi thứ hai cũng là kiểu ngồi chót vì
không có kiểu nào đúng hơn kiểu này. Đó là kiểu ngồi Kiết
Già. Chữ Kiết Già cũng là chữ của nhà chùa du nhập từ Ấn Quốc, và trong
giới Am thiền, người nhà quê ta không có kiểu ngồi như Kim Tự Tháp nầy. Đây là
kiểu ngồi hai chân đan vào nhau giống như ngồi xếp bằng nhưng ở đây đan tréo
nhau như bị khóa lấy không dễ lấy chân ra, do đó nó đủ cứng chắc để giữ thân
mình gồm đầu, cổ, mình thẳng tắp như cây trụ chôn. Đây là kiểu ngồi lý tưởng
nhất đối với các Thiền gia, cũng là cách ngồi tốt cho người tập Điều tức, vì khi
điều tức thì thân phải thẳng để ngũ tâm hướng thẳng lên trời để luồng khí lực dễ
luân lưu trong kinh mạch. Đó là cách ngồi hỗ trợ cho phương
pháp tập, nếu không ngồi như thế thời tập điều tức khó thành công đặng, hoặc dã
thì lâu lắm mới đạt được kết quả.
Tác giả đề nghị võ gia chỉ cần tập ngồi Bán
Già thôi vì:
1.
Ngồi Bán Già chân không
bị cong nơi gối (nếu là tuổi trẻ)
2.
Ngồi Bán Già dễ ứng phó
nếu lúc Điều Tức có việc bất cập xảy đến.
3.
Đối với võ gia, việc
điều tức thường không lâu như chư vị Đạo gia hoặc Thiền
gia tham thiền nên không sợ bị ngủ gục mà lệch lạc thân hình. Việc điều tức của
Võ gia nhiều là nửa giờ, ngắn thì mười lăm phút, kế đến thì tập các động tác
tay chân rồi.
Nhưng nếu có ai muốn ngồi Kiết Già thì cũng
hay, vì khi trình độ lên cao hàng đại sư thì cần nhập định nhiều nhiều nên cần
ngồi Kiết Già, thế thời ngồi được Kiết Già thì càng hay, nếu không ngồi Bán Già
cũng thành công. Tuyệt đối không ngồi kiểu khác hoặc dã ngồi
ghế dựa, ghế đẩu, v…v… vì ngồi bậy thì không thành công.
CÁCH NGỒI BÁN GIÀ:
Chân phải co lại gác lên chân trái, hai
chân co đều nhau, lưng thẳng, đầu thẳng, hai bàn tay
đặt trước Đan điền ngay trên gót chân để ngửa. Bàn tay trái để ngửa và đặt trên
lòng bàn tay phải, mũi bàn tay trái hướng về bên phải, mũi bàn tay phải hướng về
bên trái, cùi chỏ của hai tay khuỳnh ngang, mắt nhắm hí hí và nhìn vào chóp mũi
để thấu suốt tới Đan điền. Cách ngồi như thế sẽ tạo cho thân
thể thành một khối hình tam giác và vững chắc như một Kim Tự Tháp. Đừng
ngồi theo cách các vị tu YOGA là để hai bàn tay úp trên hai đầu gối, vì như thế
thì khí sẽ trầm xuống hai bàn tay tức phân tán mà không hội đủ trong đan điền,
đồng thời như thế thì chỉ có Tam tâm hướng thẳng lên trời là không đúng. Cách
ngồi của Nội gia tu luyện công phu là ngồi sao cho đặng Ngũ Tâm hướng thẳng lên
Trời (hai lòng bàn chân, hai lòng bàn tay và đỉnh đầu tức Huyệt Bách hội phải
thẳng lên trời) để thân xác tự do khinh linh hầu tư tưởng dễ điều khiển luồng
nội khí tuần lưu trong châu thân. Sự ngồi Bán Già hai lòng bàn
chân không hướng lên trời hoàn toàn, nếu ngồi Kiết Già thì toàn
hơn.
Ban đầu học viên nên ngồi đúng kiểu như
thế, nhớ hơi ển xương sống tới trước cho sống lưng thẳng nhưng đừng ển quá độ
thành đầu ngã ra sau. Nếu có tấm kiếng để trước mặt để nhìn mà
chữa thì thật là hay. Học viên trong những ngày đầu, tuần lễ đầu chẳng
hạn, chỉ nên ngồi đúng trong vòng 5 phút thôi, đoạn dang chân ra, dùng tay xoa
nắn các bắp thịt hai chân, tay, cổ và sau lưng, xong đứng lên đi lại trong phòng
chầm chậm vài phút lại bắt đầu làm lại. Làm 3 lần thì
nghỉ.
Việc tập ngồi nầy cần chọn chỗ vắng người,
nếu trong phòng riêng đóng kín cửa tránh người quấy rầy, và chỉ nên tập vào
những giờ yên tịnh nhất (5 giờ sáng) khi vạn vật chuyển mình, cũng có thể tập
vào nửa đêm, khi trình độ nội công đã khá thì giấc ngủ không đòi hỏi phải ngủ
trước nửa đêm.
Mỗi ngày tập một lần, trong tuần lễ đầu
không cần suy nghĩ gì khác ngoài việc quan sát cho thân thể thẳng,
đúng.
Tuần lễ thứ hai không quan sát thế ngồi nữa
mà tâm trí như vẫn thấy thân thể đang ngồi đứng, ngũ
tâm hướng thẳng lên trời. Mắt nhắm hí hí không nhìn mà biết
được mọi phần bên ngoài của cơ thể ta đang ngồi, dùng tư tưởng dò xét bao quanh
thế ngồi của mình. Khi dò xong thấy không có chỗ
nào nghi ngờ thì tâm trí quay về đặt trên đầu mũi. Nghĩa là tập trung ý nghĩ
trên đầu mũi, ngoài ra mọi sự chung quanh không có vật
gì làm ta quan tâm. Nếu học viên không tự tập trung được tư
tưởng thì hãy đếm thầm trong bụng từ một, hai, ba, v…v… cho đến mười rồi ngược
lại một cách chậm chạp. Đếm đi đếm lại cho đến khi hết
giờ thì xả. Học viên có thể dùng đồng hồ reo loại nhỏ
để canh giờ tập luyện, nhớ là phải để đồng hồ xa chỗ tọa để tránh tiếng tíc tắc
làm ta dễ phân tâm.
Trong vòng một tháng tập trung tư tưởng nơi
đầu mũi, nếu học viên không bị phân tâm tưởng đến việc nầy việc khác trong 5
phút đồng hồ thì đã khá rồi. Bấy giờ số thời gian tăng lên 10 phút rồi
15 phút, v…v… cho đến nửa giờ thì thôi. Trong 15 phút mà học viên đặt tâm vào
mũi không nghĩ đến việc gì, tức để đầu óc trống không thì coi như phần Phu Tọa
đã thành công rồi và tiếp theo thì học cách Điều Tức. Nghĩa là học cách thở sâu
thẳm của nội công để làm tăng khí lực, hay nói cách khác là bắt đầu luyện Khí,
luyện linh đan.
Các đạo sĩ phái Vô Vi (đạo Lão, tổ sư là Lão Tử) chủ luyện linh đan tức là luyện
khí để được trường sinh. Ngoài phần luyện linh đan, họ còn
luyện quyền thuật như Bát Quái Quyền, Thái Cực Quyền. Ngoài ra họ còn
luyện các môn pháp thuật… Cách ngồi cho ngay ngắn trên còn gọi
là điều thân.
PHÉP ĐIỀU TỨC:
Phép tu luyện nội công phật gia lấy điều
tức, vận khí làm căn bản (Tiên gia cũng đặt phép điều tức hàng trên các môn
khác), bởi nội tại được đầy đủ, sung mãn, vững chắc thời mọi sự không còn lo
lắng gì. Có điều Phật Gia Thiếu Lâm thường giáo dục môn đồ
quyền cước, sau mới dạy cách điều thân và điều tức. Ấy
có khác với Tiên Gia Lão Đạo là khởi đầu dạy môn sinh Phu tọa Điều tức rồi mới
học quyền thuật. Dù cách này hay cách khác thì hai đạo lớn vẫn chú trọng
đến cách tích tụ nguồn nội lực vạn năng của thiên nhiên vào trong nội thể để đạt
đến mục đích cường kiện thân thể, minh mẫn tinh thần mà theo cách nói xưa là ngoại tà, ngoại ma không thể xâm nhập
bản thân được. Người xưa coi môn nội công như một kỳ công hãn
hữu, một phép mầu vạn năng. Bởi thế cho nên ai luyện
thành đều được người đời nễ trọng tôn kính như bậc thần minh. Cái đó cũng không có gì lạ, và đời nay tưởng chúng ta cũng cảm thấy
như thế, vì một người đắc thành nội công thượng thừa thời đã qua bao nhiêu khổ
hạnh trì tu, nào tuyệt dục, trường trai, tâm không khoáng đạt, v…v… nội bấy
nhiêu đó cũng đủ để đời kính ngưỡng.
Hiểu một cách rành rẻ hơn, điều tức là cách
điều khiển khối Tiên thiên khí hay Hổn nguyên khí của vũ trụ, một loại khí có
sức ép nén khoảng trăm triệu tấn (100.000.000 tấn) trên mỗi phân vuông vật chất
trên và trong quả địa cầu. Với sức ép nầy, mọi vật thể đều bị khí
xuyên qua dễ dàng dù vật thể là thép, sắt, đá và ngay như quả địa cầu với bán
kính 6.366 kim, Hổn nguyên khí vẫn xuyên qua và không để lại một dấu vết
nào. Tập nội công là tập xử dụng sức mạnh khối khí Hổn nguyên
để làm lợi khí riêng biệt. Nên biết là khí Hổn nguyên không phải là Dưỡng
và Đạm khí (1/5) mà phổi ta thu nhận theo từng nhịp
thở, mà Hổn nguyên khí làm phổi phải thở để nhận dưỡng và đạm khí. Bởi thế, khi
hít hơi vào thời khí dưỡng đạm được phổi thu nhận, còn
Hổn nguyên được tư tưởng dẫn xuyên qua năm từng để tích tụ nơi Đan điền. Khi Đan điền tích tụ được Hổn nguyên khí thì người ta đã đạt được
sức mạnh vạn năng rồi vậy.
Nói rõ hơn, luyện nội công tức lợi dụng cái
sức mạnh của thiên nhiên là khí hổn nguyên 100.000.000 tấn trên 1cm² làm sức
mạnh của ta. Nhờ tính
xuyên qua mọi vật chất như quang tuyến X qua lớp thịt mỏng nên nội gia tích và
tán khí đi khắp nơi trong châu thân mình được như ý. Ông Uyeshiba, tổ sư môn
Hiệp Khí Đạo Nhật Bản suốt đời không có đối thủ nào quật ngã được là nhờ luyện
thành Hổn Nguyên Khí công. Với cách nói tràn đầy tính đạo, ông bảo: “Vì tôi là
tiểu vũ trụ hoà đồng cùng đại vũ trụ, nên ai động đến tôi tức động đến đại vũ
trụ, mà vũ trụ thì không ai có thể lay chuyển nổi”. Thật ra
thì ông đã luyện thành Hổn nguyên khí công chớ chẳng có chi
lạ.
Khái lược như trên học viên độc giả đã biết
nguồn gốc của sức mạnh do tu luyện nội công mà có. Sau đây là phần bài tập thực
hành:
ĐIỀU TỨC:
Thông thường ai cũng hít không khí qua mũi
vào phổi và thở ra, đôi khi có ngừng một vài giây đồng hồ rồi mới thở
ra. Đối với nhà thể thao Âu Châu thì cố hít cho đầy phổi bằng một hơi
dài và thở ra thật mạnh để trút cạn trọc khí trong đáy phổi, cách này làm phổi
nở to và lồng ngực tăng trưởng. Đây cũng là một cách
tốt giúp cho thân thể cường tráng.
Nội gia hít thởi theo một lối riêng:
Trước nhất ngoài việc đúng cách Phu Tọa (đã
học chương trước), miệng ngậm kín, hai hàm răng khít nhau, đầu lưỡi đặt ngay chỗ bốn răng cửa tiếp giáp nhau, mũi
hít vào thật đầy khí xong thở ra bằng miệng mở tròn như huýt sáo (nói là thổi
khí ra thì đúng hơn). Khi thở ra hết hơi thì bụng thóp lại để
giúp phổi đẩy hết thân khí ra ngoài. Xong ngậm miệng
lại, mũi hít đầy khí trời. Thở 3 lần. Hơi thở lọc sạch trên sửa soạn cho hơi thở Điều tức sẽ thực hiện kế
tiếp.
Khởi sự, dùng ngón tay cái của bàn tay trái
đặt lên nhân trung (dưới chóp mũi), kế mũi hít hơi vào từ từ đồng thời ngón tay
cái kéo xuống theo đường chu thiên…đến yết hầu, huyệt Liêm Tuyền…rồi đến huyệt
Cửu Vĩ thì phổi đã đầy hơi rồi, ngón tay dừng ngay tại đó một chút. Thời gian
ngừng lâu bằng thời gian hít vào, đoạn thở hơi ra bằng mũi cũng từ từ, ngón tay
cái từ huyệt Cửu Vĩ đưa lên từ từ tới Liêm Tuyền, và sau hết dừng lại ở Nhân
trung, tức là vị trí ban đầu thì hơi thở vừa cạn. Lại hít vào, ngón tay cái đưa theo xuống rồi dừng lại nơi Cửu Vĩ, nghỉ, xong
đưa theo hơi thở ra, khi cạn hơi thì về đến vị trí ban đầu. Hãy tưởng tượng thấy
hơi thở đi từ mũi vào, hễ tới đâu thì ngón tay cái theo
tới đó và dừng lại tại đâu, sau cùng thì hơi thở ra theo ngón tay cái hướng
dẫn. Tùy theo người mạnh yếu, hơi dài ngắn mà hạn định
thời gian mỗi chu kỳ hít vô – nghỉ - thở ra. Miễn sao thời
gian mỗi khi hít, nghỉ, thở ra đều bằng nhau là được. Thở thật đều đặn trong 15 phút cho thời gian đầu, sau tăng dần
lên.
Sau chừng một tuần lễ, ngón tay cái dẫn hơi thở xuống đến huyệt Đan điền (nằm trên đường
Chu thiên đã học) rồi cũng dẫn khí ra như trước. Cứ như
thế mà tập trong một tháng thì bỏ ngón tay cái
ra. Nhưng mỗi lần hít vào vẫn thấy khí vào như dòng nước chảy theo ngón tay vô hình xuống các huyệt Liêm Tuyền, Cửu Vĩ, Đan
điền rồi dừng lại đó, kế đến đi ra.
Khi khí ra vào thấy rõ trong mỗi chu kỳ hít thở ngừng nghỉ thì coi như thành công một giai
đoạn rồi đó. Được như thế và hít thở cho thật thuần thục thì
ít nhất cũng mất đến ba tháng công phu, mỗi lần tập phải 30 phút, mỗi ngày 2 lần
tập.
Trong vòng ba tháng, học viên đệ tử thành
công được dẫn khí tới đan điền thời thật là điều tốt đẹp. Rồi trong những giờ khác trong ngày, nếu
thảng nhớ đến hơi thở của mình thời bất kỳ đứng, ngồi hay nằm, học viên thử hít
hơi chuyển khí xuống đan điền và trầm (giữ) đó rồi lại thở ra từ từ…làm vài
hơi. Nếu trong những lúc giao động thần kinh, buồn lo hồi hộp,
yếu sức, mệt mõi thì học viên đệ tử thử hít vài hơi như thế tất lấy lại được
trạng thái bình thường để bắt đầu công việc một cách tốt đẹp ngay. Trong môn Nhu Đạo Nhật Bổn, một người bình thường muốn biết thế nào
là đan điền phải mất ít nhất là 8 đến 10 năm tập luyện, còn những người vô tâm
thời tập lâu hơn. Người tập Thái Cực Quyền hoặc Bát
Quái Quyền nhờ phép Thôi Thủ nên thành công sớm hơn. Nếu cả hai biết được bí quyết vận khí xuống đan điền nầy thời họ
thành công mau chóng hơn để giữ được trọng tâm thấp hơn. Và do đó, họ rất
thăng bằng, khó có người quật ngã họ được. Đối với học viên bản môn, thời sau
khi trầm khí đan điền được rồi thời nếu chuyên chú trong một vài năm thì đi đứng
vô cùng vững vàng, tướng đi đổi khác, không còn lóc chóc, lăn quăn, gập gà gập
gềnh, xiêu vẹo, v..v.. mà lúc nào cũng thật là trầm vững, ngồi đứng khoan thai
hơn, người tính chậm chạp thì bước đi trầm trọng, còn như người tánh nhanh nhẹn
thời bước đi chắc chắn, trong sự gọn gàng có tàng chứa phần trì trọng. Bởi thế, một võ gia hiểu rộng chỉ cần thấy một người bước đôi ba
bước là hiểu được trình độ võ công của người đó. Điều
nầy tưởng cũng không phải là khó hiểu. Khi học viên luyện dồn khí xuống
Đan điền thời càng ngày bụng dưới vùng quanh rốn cứ to dần lên, càng ngày càng
to và bóng láng như nửa trái dưa hấu úp vào; nếu thấy bụng mình to ra như thế
thời học viên nên mừng mà không có gì đáng lo ngại, bụng tác giả cũng no tròn
như trái dưa hấu lớn, lúc bình thường muốn nhỏ lại thời thóp bụng chuyển hơi lên
ngực là bụng biến đi.
Nếu học tới đây rồi tập tán khí ra tứ chi
mà xài thời cũng đặng nhưng chỉ mới được nửa chừng. Vậy ai muốn tiến thêm
thời phải gia công học phần kế tiếp.
Khi đã tụ khí xuống đan điền được rồi thời
không cần ngón tay hướng dẫn nữa mà tưởng tượng dẫn khí huyệt Hội Âm qua Hải để
rồi chuyển lên Huyệt Mạng môn nằm giữa khớp xương hông thứ hai và thứ ba (hai
bên là hai quả thận). Kế, chuyển khí lên huyệt Linh Đài, Thần
Đạo giữa xương sống (lưng) tức đốt xương lưng thứ 6-7 (L.Đ) và 5-6
(T.Đ). Rồi dưa khí lên đến Thân Trụ, Đại Truy, Á Môn, Phong Phủ, Não Hộ,
rồi Bá Hội xuống Ấn đường, sau cùng thì đưa hơi ngoài qua mũi xuống đan điền,
rồi từ biển lớn đan điền mới đưa khí lên mũi mà thở ra. Giai
đoạn thứ hai nầy khó khăn hơn giai đoạn một vì sự chuyển khí đi có phần phức tạp
hơn. Khí từ đan điền chuyển vào trong cột tủy sống (giữa tủy sống có lỗ
trống ăn thông lên đến não) và đưa lên não xong chuyển
về đan điền. Học viên không nghiên cứu rõ thì khó thành
tựu. Khi nào dẫn khí có kết quả thời thấy có luồng hơi
nóng chạy trong cột xương sống lên đến đỉnh đầu. Khi
tham luyện tới trình độ này cần người canh giữ đừng để cho ai làm giật mình có
thể gây nhiều tệ hại. Trong ba năm luyện tập chuyên
cần, học viên có thể dẫn khí thông suốt trên hai kinh Nhâm Đốc, tức vòng Châu
Thiên để tích khí nơi đan điền. Khi đả thông được hai
kinh Nhâm Đốc thời kế đó tập đến dẫn khí ra tứ chi bằng 12 phép luyện nội công
trong chương thứ ba.
Đến đây tưởng cũng không
còn mấy điều để nói về phép điều tức dẫn khí nữa. Sau đây, tác giả tóm
tắt vài điều quan thiết trong chương hầu giúp độc giả khỏi tốn công làm bảng tóm
lược:
TẬP ĐIỀU TỨC:
1.
Trước khi tập đến điều
tức biết Phu Tọa, nghĩa là cách ngồi xếp bằng đúng cách, Bán Già hay Kiết Già.
2.
Học thuộc đường đi của
vòng Châu thiên trên hai kinh Nhâm Đốc.
3.
Giai đoạn một là thở có
ngón tay hướng dẫn, nói cách khác là thở bằng đan điền,
tức là dồn hơi xuống bụng dưới.
4.
Đưa hơi (khí) vòng
quanh hai kinh Nhâm Đốc (vòng Châu Thiên), nói cách khác là đả thông hai kinh
Nhâm Đốc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét