waveometa menu

Thứ Năm, 31 tháng 1, 2013

Luyện khí công - Bài 1: Phật triển thiên thủ Pháp

Bài 1: Phật triển thiên thủ Pháp
{bài Phật mở nghìn tay}
Công lý: Cốt lõi của bài "Phật triển thiên thủ Pháp" là chùng [và] căng, làm trăm mạch đều thông. Đối với người mới học khí công mà xét, thì thông qua luyện công [này] có thể đắc khí rất mau; đối với người đã từng luyện công mà xét, thì có thể mau chóng nâng cao. Bộ công pháp này ngay lập tức yêu cầu trăm mạch đều thông, để người luyện công đứng ngay tại tầng rất cao mà luyện. Động tác của công pháp này tương đối đơn giản, bởi vì Đại Đạo là chí giản chí dị {vô cùng giản dị}; động tác tuy đơn giản, nhưng từ mức nhìn rộng mà xét thì nó khống chế toàn bộ công pháp những thứ cần luyện xuất được. Khi học luyện công này, thì cảm giác thấy thân thể phát nhiệt, cảm thụ một cách đặc thù được trường năng lượng rất mạnh mẽ, bởi vì [nó] triển khai và khơi thông những thông đạo khí của toàn cơ thể. Mục đích là đả thông những chỗ khí bị tắc nghẽn, thông suốt không ngăn, điều động khí vận động mạnh nóng bên trong [thân] thể và dưới da, hô hấp lớn mạnh những năng lượng trong vũ trụ; đồng thời đưa người luyện công nhanh chóng tiến nhập vào trạng thái ở trong trường năng lượng khí công. Công pháp này đóng vai trò công pháp luyện cơ sở của Pháp Luân Công; mỗi khi luyện công, thông thường luyện công pháp này trước tiên; nó là một phương pháp tăng cường tu luyện.
Quyết [i]: Thân thần hợp nhất, động tĩnh tuỳ cơ; Đỉnh thiên độc tôn, thiên thủ Phật lập.
Thế dự bị: Toàn thân thả lỏng, lỏng nhưng không oải; bàn chân cách rộng bằng vai, đứng thẳng tự nhiên; hai chân cong một chút, đầu gối và đùi ở trạng thái [hơi] khuỵ; cằm hơi thu vào, lưỡi chạm hàm trên, hai hàm răng hơi cách nhau chút xíu, môi đóng kín, hai mắt nhắm khẽ, mang theo [ý] niệm giữ nét mặt hoà nhã. Trong khi luyện công sẽ cảm giác bản thân mình rất cao lớn.
Lưỡng thủ kết-ấn {hai tay ở thế kết-ấn}: Hai tạy nâng lên, lòng bàn tay hướng lên trên, hai đầu ngón tay cái tiếp xúc nhẹ vào nhau, bốn ngón tay kia xếp chồng lên nhau; nam tay trái ở trên, nữ tay phải ở trên, tạo thành hình bầu dục; đặt ở chỗ bụng dưới; để hai bắp tay hơi hướng về phía trước, hai cùi trỏ hướng lên, sao cho chỗ nách có khoảng trống (như hình 1-1).
1-1: Kết ấn1-2: Di Lặc thân yêu {duỗi lưng}1-3: Như Lai quán đỉnh1-4: Như Lai quán đỉnh
Di lặc thân yêu {Di Lặc duỗi lưng}: Từ khởi thế là kết-ấn, hay tay kết-ấn nâng lên; thuận theo tay dâng lên, hai chân cũng dần dần duỗi ra; đến lúc hay tay nâng đến ngang đầu thì kết-ấn dần dần mở ra, bàn tay dần dần xoay chuyển hướng lên trên; khi lên đến đỉnh đầu, thì lòng bàn tay hướng lên trên; mười ngón tay chỉ vào nhau, đầu ngón tay cách nhau 20-25cm (như hình 1-2). Đồng thời lúc ấy đầu dựng [thẳng] lên, hai chân dẫm xuống, thân thể thẳng tắp; dùng lực ở hai chưởng căn [ii] ấn lên; toàn thân dần dần căng thẳng; căng chừng 2-3 giây; rồi toàn thân lập tức thả lỏng, đặc biệt là đầu gối và chân trở về trạng thái thả lỏng.
Như Lai quán đỉnh {Như Lai tưới vào đầu}: Làm tiếp theo động tác trên, hai tay đồng thời xoay bàn tay ra ngoài 140 độ, hai tay tạo thành "hình cái phễu"; cổ tay lỏng bàn đưa bàn tay xuống (như hình 1-3). Hay bàn tay xuống đến ngực thì tay cách ngực khoảng 10cm; tiếp tục vận động hạ xuống đến vị trí bụng dưới (như hình 1-4).
Song thủ hợp-thập {hai tay ở thế hợp-thập}: Hai tay ở vị trí bụng dưới, lập tức nâng lên trước ngực làm thế "hợp-thập" (như hình 1-5). Khi hợp-thập thì ngón tay gắn chặt ngón tay, chưởng căn gắn chặt chưởng căn, có khoảng trống giữa lòng bàn tay, hai cùi trỏ hướng lên, hai cánh tay dưới tạo thành một đường thẳng (ngoại trừ thế "hợp-thập" và "kết-ấn" ra, đều [để bàn tay] ở thế "liên-hoa chưởng" [iii], [các động tác khác] dưới đây cũng như thế).
1-5: Hợp thập1-6: Chưởng chỉ càn khôn1-7: Chưởng chỉ càn khôn
1-8: Chưởng chỉ càn khôn1-9: Chưởng chỉ càn khôn
Chưởng chỉ càn khôn {bàn tay chỉ trời đất}: Từ khởi thế là "hợp-thập", hai bàn tay tách ra, cách nhau khoảng 2-3cm, đồng thời bắt đầu xuay bàn tay, nam tay trái ở trên (nữ tay phải ở trên); hướng chỗ ngực xoay chuyển, tay phải xoáy ra ngoài ngực, sao cho tay trái ở trên, tay phải ở dưới, và cánh tay tạo thành hình chữ "nhất" (như hình 1-6). Tiếp đó cánh tay trái triển khai sang bên trái nghiêng lên trên, lòng bàn tay hướng xuống dưới, bàn tay cao bằng đầu; tay phải vẫn ở trước ngực, lòng bàn tay hướng lên trên; thuận theo tay trái dần dần đạt đến vị trí, thì toàn thân cũng dần dần duỗi thẳng, đầu dựng [thẳng] lên, hai chân dẫm xuống; tay trái duỗi thẳng sang trái nghiêng lên trên; tay phải ở trước ngực, bắp tay duỗi ra ngoài (như hình 1-7). Duỗi căng trong khoảng 2-3 giây, rồi lập tức thả lỏng toàn thân; tay trái lại thu về trước ngực cùng với tay phải tạo thành thế "hơp-thập". Sau đó lại xoay chuyển bàn tay, tay phải (nữ là tay trái) ở trên, tay trái ở dưới (như hình 1-8). Tay phải lặp lại động tác của tay trái lúc trước; cánh tay phải triển khai sang bên phải nghiêng lên trên, lòng bàn tay hướng xuống, tay cao bằng đầu; tay trái vẫn ở trước ngực, lòng bàn tay hướng lên trên. Sau khi duỗi căng (như hình 1-9), toàn thân lập tức thả lỏng. [Rồi] sau khi hai tay thu về ở trước ngực [tạo thành] "hợp-thập" (như hình 1-5).
Kim hầu phân thân {khỉ vàng phân thân}: Từ khởi thế "hợp-thập"; hai tay tách ra duỗi sang hai bên, cùng với vai tạo thành hình chữ "nhất"; toàn thân dần dần duỗi thẳng ra, đầu dựng [thẳng] lên, chân dậm xuống đất; dụng lực vào hai tay ở hai bên, lực tách làm bốn (như hình 1-10). Duỗi căng trong 2-3 giây, [rồi] toàn thân lập tức thả lỏng; hai tay thu hồi "hợp-thập" trước ngực.
1-10: Kim hầu phân thân1-11: Song long hạ hải
Song long hạ hải {hai rồng xuống biển}: Từ khởi thế "hợp-thập", hai tách ra hướng về đằng trước duỗi xuống dưới, hay tay song song, duỗi thẳng ra, tạo với bắp chân một góc 30 độ (như hình 1-11). Toàn thân dần dần duỗi căng thẳng ra, đầu dựng [thẳng] lên, chân dẫm xuống dưới; căng thẳng trong khoảng 2-3 giây, [rồi] toàn thân lập tức thả lỏng; tay lại thu về, "hợp-thập" trước ngực.
Bồ Tát phù liên {Bồ Tát dìu sen}: Từ khở thế "hợp-thập", sang hai bên thân thể và nghiêng xuống dưới duỗi ra; khi tay sang hai bên rồi, thì cánh tay cũng thẳng ra tạo với hai bên phải trái của thân thể góc 30 độ (như hình 1-12). Lúc này, toàn thân dần dần căng thẳng, ngón tay dụng lực hướng xuống dưới; sau đó toàn thân lập tức thả lỏng, hai tay thu về hợp thập trước ngực.
1-12: Bồ Tát phù liên1-13: La Hán bối sơn1-14: Kim Cương bài sơn
La Hán bối sơn {La Hán vác núi}: Từ khởi thế "hợp-thập", hai tay tách ra, duỗi về phía sau thân thể, đồng thời lòng bàn tay xoay hướng về phía sau; khi tay đến bên thân thì dần dần xoay móc cổ tay lên; cổ tay quá về sau thân thể, cổ tay tạo thành góc 45 độ (như hình 1-13). Toàn thân dần dẫn duỗi căng thẳng; sau khi tay đến vị trí, thì đầu dựng [thẳng] lên, hai chân đạp xuống, thân thể rất thẳng; duỗi thẳng trong 2-3 giây; [rồi] toàn thân lập tức thả lỏng. Lại thu tay về, trở lại "hợp-thập" trước ngực.
Kim cương bài sơn {Kim Cương đẩy núi}: Từ khởi thế "hợp-thập", hai tay tách ra, hướng về phía trước [như là] đẩy núi, ngón tay chỉ lên trên; cánh tay cao bằng vai, khi cánh tay duỗi xong, dùng lực căng thẳng ra, đầu dựng [thẳng] lên, hai chân dẫm xuống, thân thể thẳng tắp (như hình 1-14). Căng duỗi trong 2-3 giây, [rồi] toàn thân lập tức thả lỏng, hai tay thu về "hợp-thập" trước ngực.
1-15: Diệp khấu tiểu phục1-16: Kết ấn
Diệp khấu tiểu phúc {xếp vào bụng dưới}: Từ khởi thế "hợp-thập", hai tay từ tốn đưa xuống, lòng bàn tay chuyển hướng vào bụng; khi tay xuống đến chỗ bụng dưới thì hai bàn tay chồng trùng vào nhau, nam tay trái để trong, nữ tay phải để trong, lòng bàn tay này hướng vào mu bàn tay kia. Khoảng cách giữa hai tay và khoảng cách giữa tay và bụng dưới là 3cm, thời gian xếp chồng là 40-100 giây (như hình 1-15). Thu thế: lưỡng thủ kết ấn.



Chú thích của người dịch
[i] Quyết: khẩu quyết, nhẩm đọc một lần trước khi tập.
[ii] Chưởng căn: chỗ gốc của bàn tay.
[iii] Liên hoa chưởng - bàn tay sen: tức là bàn tay để xuôi ra với ngón giữa hơi nhíu vào trong một chút, hãy quan sát các hình ảnh thật kỹ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét