waveometa menu

Thứ Sáu, 11 tháng 11, 2016

Giải phẫu học não bộ

Giải phẫu học não bộ
Não bộ giữ nhiều chức năng quan trọng. Nó diễn giải ý nghĩa của những điều diễn ra xung quanh chúng ta. Thông qua năm giác quan: thị giác, khướu giác, thính giác, vị giác và xúc giác, não bộ thu nhận nhiều tín hiệu cùng một lúc.
Não bộ điều khiển suy nghĩ, trí nhớ, lời nói, vận động của tay chân, và chức năng của nhiều cơ quan trong cơ thể. Nó cũng xác định cách con người phản ứng lại trong những tình huống căng thẳng (Ví dụ: làm bài thi, mất việc làm, sinh con, bệnh tất, ...) bằng cách điều hòa nhịp tim và nhịp thở. Não bộ là một cấu trúc có tổ chức, được chia thành nhiều thành phần có những chức năng riêng biệt và quan trọng.
Trọng lượng của não người thay đổi từ khi mới sinh ra cho đến khi trưởng thành. Lúc mới sinh não của 1 đứa trẻ trung bình nặng khoảng 450 gram, và phát triển đến khoảng 910 gram trong thời kỳ thơ cấu. Não của một người phụ nữ trưởng thành nặng trung bình khoảng 1220 gram, trong khi đó ở người đàn ông trưởng thành nặng khoảng 1360 gram.


Hệ thần kinh
Hệ thần kinh thường được chia thành hệ thần kinh trung ương và hệ thần kinh ngoại biên. Hệ thần kinh trung ương bao gồm não, các dây thần kinh sọ và tủy gai. Hệ thần kinh ngoại biên gồm các dây thần kinh gai cột sống bắt nguồn từ tủy gai và hệ thần kinh tự chủ (gồm hệ thần kinh giao cảm và phó giao cảm).

Cấu trúc tế bào não
Bộ não được tạo thành từ hai loại tế bào: các neuron và các tế bào đệm, còn được gọi là thần kinh đệm. Các neuron thần kinh chịu trách nhiệm gửi và nhận các tín hiệu hay xung thần kinh. Các tế bào thần kinh đệm, là những tế bào thần kinh không neuron, làm nhiệm vụ nâng đỡ và nuôi dưỡng, duy trì cần bằng nội môi, hình thành myelin, và tạo điều kiện cho tín hiệu được truyền đi trong hệ thần kinh. Trong não người, các tế bào thần kinh đệm nhiều hơn neuron thần kinh khoảng 50 lần. Trong các khối u não nguyên phát, tế bào thần kinh đệm là loại tế bào được tìm thấy nhiều nhất.
Khi một người được chẩn đoán u não, họ có thể được sinh thiết để lấy mô từ khối u đem xác định giải phẫu bệnh. Nhà giải phẫu bệnh học sẽ xác định các loại tế bào hiện diễn trong mẫu mô này, và các khối u não được đặt tên dựa trên kết quả này. Loại tế bào và loại u não có liên quan chặt chẽ đến điều trị và tiên lượng bệnh nhân.
Màng não
Bộ não được bao bọc trong một lớp vỏ ngoài là xương bản sọ. Xương bản sọ bảo vệ não khỏi bị tổn thương. Xương bản sọ kết hợp với các xương bảo vệ mặt tạo thành hộp sọ. Giữa hộp sọ và bộ não là các màng não, gồm ba lớp mô che phủ và bảo vệ não bộ và tủy gai. Từ ngoài vao trong lần lượt là: màng cứng, màng nhện và màng nuôi.
Trong não, màng cứng gồm hai lớp màng màu trắng, không đàn hồi. Lớp ngoài cùng được gọi là màng xương. Lớp bên trong, gọi là màng cứng, phủ bên trong toàn bộ hộp sọ và tạo nếp gấp hoặc các ngăn bảo vệ và che chở các thành phần của bộ não. Hai nếp gấp đặc biệt của màng cứng trong não được gọi là liềm đại não và lều tiểu não. Liềm đại não phân cách bán cầu não bên phải với bên trái, và lều tiểu phân cách nhu mô não tầng trên lầu với dưới lều.
Lớp màng não thứ hai là màng nhện. Màng này mỏng và mềm, bao phủ toàn bộ não. Có một khoang giữa màng cứng và màng nhện được gọi là khoang dưới màng cứng. Màng nhện được tạo thành từ mô đàn hồi mềm mại và các mạch máu với nhiều kích thước khác nhau.
Lớp màng trong cùng sát bề mặt não nhất được gọi là màng nuôi. Màng nuôi có nhiều mạch máu đi sâu vào đến bề mặt nhu mô não. Màng nuôi bao phủ toàn bộ bề mặt của bộ não, đi theo những nếp gấp của các cuộn não. Các động mạch lớn nuôi não chia các nhánh đến màng nuôi. Khoang ngăn cách màng nhện và màng nuôi được gọi là khoang dưới nhện. Dịch não tủy lưu thông trong khoang dưới nhện.
Dịch não tủy
Dịch não tủy có trong não và bao quanh não bộ và tủy gai. Nó là một chất lỏng trong suốt giúp làm bớt chấn thương cho não và tủy gai. Chất lỏng này lưu thông qua các kênh xung quanh não bộ và tủy gai, liên tục được hấp thu và bổ sung. Dịch não tủy được tạo ra trong các kênh rỗng trong não gọi là các não thất. Một cấu trúc đặc biệt trong mỗi não thất, được gọi là các đám rối mạch mạc, chịu trách nhiệm chính trong việc tạo ra dịch não tủy. Trong điều kiện bình thường, não duy trì sự cân bằng giữa hấp thu và sản xuất dịch não tủy. Tuy nhiên, sự gián đoạn trong hệ thống này có thể xảy ra.
Hệ thống não thất
Hệ thống não thất được chia thành 4 khoang được kết nối với nhau bởi các lỗ và ống.
Hai não thất bên trong các bán cầu não được gọi là não thất bên (thứ nhất và thứ hai). Chúng thông với não thất ba qua một lỗ riêng biệt gọi là lỗ Munro. Não thất thứ ba ở trung tâm của não, và thành của nó được tạo từ đồi thị và vùng hạ đồi.
Não thất thứ ba thông với não thất thứ tư qua một ống dài gọi là cống Sylvius.
Dịch não tủy chảy xuống não thất thứ tư, chảy xung quanh não và tủy sống bằng cách đi qua loạt các lỗ hở.
Chức năng và thành phần của não

 Thân não - Thân não là phần kéo dài xuống thấp của bộ não, nằm ở phía trước của tiểu não và liên tục với tủy sống. Nó bao gồm ba cấu trúc: trung não, cầu não và hành não. Nó phục vụ như một trạm chuyển tiếp, truyền thông điệp qua lại giữa các bộ phận cơ thể khác nhau và vỏ não. Nhiều chức năng đơn giản hay nguyên thủy thiết yếu cho sự sống nằm ở tại đây.
Trung não là một trung tâm quan trọng cho các cử động của mắt trong khi cầu não chịu trách nhiệm cho việc phối hợp cử động của mắt và mặt, cảm giác khuôn mặt, nghe và thăng bằng.
Hành tủy kiểm soát nhịp thở, huyết áp, nhịp tim và nuốt. Tín hiệu từ vỏ não đến tủy gai và các dây thần kinh gai sống được truyền thông cầu não và thân não. Phá hủy các vùng này của não bộ sẽ dẫn đến "chết não". Nếu không có những chức năng chủ chốt này, con người không thể tồn tại được.
Hệ lưới nằm ở trung não, cầu não, hành tủy và một phần của đồi thị. Nó kiểm soát mức độ thức tỉnh, cho phép mọi người chú ý đến môi trường của họ, và có liên quan đến giấc ngủ.
10 trong số 12 dây thần kinh sọ xuất phát từ thân não, kiểm soát thính giác, cử động mắt, cảm giác khuôn mặt, vị giác, nuốt và cử động của mặt, cổ, vai và các cơ của lưỡi. Các dây thần kinh sọ não kiểm soát khướu giác và thị giác xuất phát từ đại não. Bốn cặp dây thần kinh sọ xuất phát từ cầu não: dây thần kinh số 5 đến số 8.
Tiểu não - Tiểu não nằm ở phía sau của não bộ, bên dưới thùy chẩm. Nó được ngăn cách với đại não bởi lều tiểu não (nếu gấp của màng cứng). Tiểu não giúp phối hợp các động tác hay tạo nhịp điệu khi cử động, ví dụ các cử động tinh vi của các ngón tay khi thực hiện phẫu thuật hoặc vẽ một bức tranh. Nó giúp ta duy trì tư thế, cảm giác cân bằng hoặc thăng bằng, bằng cách kiểm soát trương lực các cơ và vị trí của tay chân. Tiểu não rất quan trọng để giúp một người có khả năng thực hiện một hành động nhanh chóng và lặp đi lặp lại như chơi một trò chơi video. Đối với tiểu não, bất thường ở bán cầu nào sẽ gây những triệu chứng trên cùng bên của cơ thể.
Đại não - Đại não, thành phần chính của não, được chia thành hai phần chính: bán cầu não phải và trái. Đại não là một thuật ngữ thường được sử dụng để mô tả toàn bộ não. Rãnh ngăn cách hai bán cầu được gọi là khe não đọc. Hai bán cầu não được nối với nhau ở phần đáy bởi thể chai. Thể chai liên kết hai nửa của bộ não với nhau và đưa thông tin  từ nữa bên này sang bên kia. Bề mặt của đại não chứa hàng tỷ các tế bào neuron thần kinh và các tế bào đệm tạo thành vỏ não.
Vỏ não có màu nâu xám màu được gọi là "chất xám". Bề mặt của não có các nếp nhăn. Vỏ não có các khe (rãnh nhỏ), những rãnh (rãnh lớn hơn) và chỗ lồi giữa các rãnh gọi là các hồi não. Các nhà khoa học có tên riêng biệt cho những chỗ lồi và các rãnh này. Sau nhiều thập kỷ nghiên cứu, các nhà khoa học đã khám phát ra các chứng năng chuyên biệt của các vùng khác nhau của não bộ. Bên dưới vỏ não hay bề mặt của não bộ, các sợi liên kết các neuron thần kinh với nhau tạo nên một vùng màu trắng được gọi là "chất trắng".
Bán cầu đại não có một vài rãnh đặc biệt. Dựa vào các rãnh này, đại não có thể được chia thành các cặp "thùy". Thùy chỉ đơn giản là một khu vực rộng lớn của não. Đại não được chia thành các cặp thùy trán, thùy thái dương, thùy đính và thùy chẩm Mỗi bán cầu có một thùy trán, một thùy thái dương, một thùy đính và một thùy chẩm. Mỗi thùy có thể được phân chia một lần nữa thành các khu vực có chức năng riêng chuyên biệt. Các thùy não không hoạt động riêng lẻ - chúng hoạt động trong mối quan hệ rất phức tạp với các thùy não khác.
Tín hiệu được dẫn truyền trong não theo nhiều cách. Các tín hiệu được vận chuyển dọc theo các tuyến đường được gọi là đường dẫn truyền. Một khối u gây ra sự phá hủy mô não có thể làm gián đoạn thông tin liên lạc giữa các phần khác nhau của não bộ. Kết qua sẽ dẫn đến mất một chức năng nào đó n hư nói, đọc, hay khả năng làm theo những mệnh lệnh đơn giản. Tin nhắn có thể đi từ một chỗ lồi này của não đến một chồ lồi khác (từ hồi não đến hồi não), tùy thùy này đến thùy khác, từ bán cầu này đến bán cầu bên kia, từ một thủy của não đến các cấu trúc sâu bên trong não, ví dụ đồi thị, hoặc từ các cấu trúc sâu của não đến các khu vực khác trong hệ thống thần kinh trung ương.
Các nghiên cứu đã xác định rằng tác động vào một bên của não sẽ gửi tín hiệu điện về phía đối bên của cơ thể. Tác động vào vùng vận động ở phía bên phải của não sẽ tạo ra những cử động ở nửa bên trái của cơ thể. Kích thích vỏ não vận động nguyên phát bên trái sẽ làm cho phía bên phải của cơ thể cử động. Các thông tin vận động và cảm giác của não đi qua phía đối bên để làm cho các chi phía đối bên cử động hoặc có cảm giác. Phía bên phải của não bộ điều khiển phía bên trái của cơ thể và ngược lại. Vì vậy, nếu có một khối u ở bán cầu não bên phải tại vùng kiểm soát hoạt động của cánh tay thì cánh tay bên trái sẽ bị yếu hoặt liệt.
Các dây thần kinh sọ - Có 12 đôi dây thần kinh sọ xuất phát từ não. Những dây thần kinh này chịu trách nhiệm cho các hoạt động rất chuyên biệt và được đặt tên và đánh số như sau:
1. Dây thần kinh khướu giác: Mùi\
2. Dây thần kinh thị giác: Thị trường và thị lực
3. Dây thần kinh vận nhãn: cử động mắt, mở mí mắt
4. Dây thần kinh ròng rọc: cử động mắt
5. Dây thần kinh sinh ba: cảm giác ở mắt
6. Dây thần kinh vận nhãn ngoài: cử động mắt
7. Dây thần kinh mặt: khép mi mắt, biểu hiện trên khuôn mặt, cảm giác về mùi vị
8. Dây thần kinh tiền đình ốc tai: nghe, thăng bằng\
9. Dây thần kinh thiệt hầu: cảm giác về mùi vị, nuốt
10. Dây thần kinh lang thang: nuốt, cảm giác về mùi vị
11. Dây thần kinh phục: điều khiển các cơ cổ và vai
12. Dây thần kinh hạ thiệt: cử động lưỡi
Vùng hạ đồi - Vùng hạ đồi là một cấu trúc nhỏ có chứa các liên kết thần kinh gửi tín hiệu đến tuyến yến. Vùng hạ đồi xử lý thông tin đến từ hệ thống thần kinh tự động. Nó có vai trò trong việc kiểm soát các chức năng như ăn, hành vi tình dục và ngủ; và điều hòa thân nhiệt, cảm xúc, sự tiết các nội tiết tố và vận động. Tuyến yên phát triển từ phần mở rộng của vùng hạ đồi xuống dưới và từ một thành phần thứ hai là từ vòm miệng mở rộng lên.
Các thùy não
Thùy trán - Thùy trán là lớn nhất trong bốn thùy chịu trách nhiệm cho nhiều chức năng khác nhau. Các chức năng này bao gồm các kĩ năng vận động như vận động như vận động tự ý, lời nói, chức năng trí tuệ và hành vi. Những vùng tạo ra các cử động của các bộ phận cơ thể nằm ở vỏ não vận động nguyên phát hay đồi trước trung tâm. Vỏ não trán trước đóng vai trò quan trọng về trí nhớ, trí thông minh, sự tập trung, tính khí và các tính.
Vỏ não tiền vận động là vùng nằm bên cạnh vỏ não vận động nguyên phát. Nó hướng dẫn cứ động của mắt và đầu và cảm giác định hướng của một người. Vùng Broca, quan trọng trong tạo ra ngôn ngữ, nằm ở thùy trán, thường ở phía bán cầu trái.
Thùy chẩm - Thùy này nẳm ở phía sau của não và cho phép con người tiếp nhận và xử lý thông tin thị giác. Nó ảnh hưởng lên quá trình con người cảm nhận màu sắc và hình dạng. Thùy chẩm bên phải diễn giải tín hiệu hình ảnh từ thị trường bên trái, trong khi cac thùy chẩm trái thực hiện chức năng tương tự cho thị trường bên phải.
Thùy đỉnh - Thùy này phân tích đồng thời các tín hiệu nhận được từ các khu vực khác nhau của não như thị giác, thính giác, vận động, cảm giác và trí nhớ. Dựa vào trí nhớ và các thông tin cảm giác mới nhận được để đưa ra ý nghĩa cho các sự vật.
Thùy thái dương - Thùy này nằm ngang vị trí tai ở mỗi bên của não bộ, và có thể được chia thành 2 phần. Một phần là na8mg ở phía dưới (bụng) của mỗi bán cầu, và phần kia nằm ở phía bên (ngoài) của mỗi bán cầu. Một vùng ở bên phải là tham gia vào bộ nhớ thị giác và giúp con người nhận biết sự vật và khuôn mặt người. Một vùng ở bên trái tham gia vào bộ nhớ ngôn ngữ và giúp con người ghi nhớ và hiểu ngôn ngữ. Phần phía sau của thùy thái dương cho phép con người phân tích cảm xúc và phản ứng của người khác.
Hệ viền - Hệ tho61ngn ày có liên quan đến cảm xúc. Trong hệ thống này có vùng hạ đồi, một phần của đồi thị, hạnh nhân (liên quan hành vi hung hăng) và vùng hải mã (có vai trò trong khả năng ghi nhớ thông tin mới).
Tuyến Tùng - Tuyến tùng phát triển từ phía sau hoặc phần sau của não thất ba. Ở một số động vật có vú, nó điều khiển các phản ứng với bóng tối và ánh sáng. Ở người, nó có vai trò náo đó trong sự trưởng thành sinh dục, tuy nhiên chức năng chính xác của tuyến tùng ở người vẫn chưa được xác định rõ.
Tuyến yên - Tuyến yên là một tuyến nhỏ dính vào đáy não (phía sau mũi), nằm trong một hố được gọi là hố yên. Tuyến yên thường được gọi là "tuyến chủ" vì nó kiểm soát tự tiết nội tiết tố. Tuyến yên chịu trách nhiệm kiểm soát và điều hòa.
- Quá trình tăng trưởng và phát triển.
- Quá trình của nhiều cơ quan trong cơ thể (ví dụ thận, vú và tử cung)
- Chức năng của các tuyến khác (ví dụ: tuyến giáp, tuyến sinh dục, và tuyến thượng thận)
Hố sau - Đây là một khoang ở phần sau của hộp sọ, chứa tiểu não, thân não và dây thần kinh sọ não số 5-12.
Đồi thị - Đồi thị đóng vai trò như một trạm chuyển tiếp cho gần như tất cả các thông tin đến và đi khỏi vỏ não. Nó có vai trò trong cảm giác, sự chú ý và sự tỉnh táo. Nó gồm 4 phần: vùng hạ đồi, vùng trên đồi, đồi thị bụng, và đồi thị lưng. Các hạch nền là cụm các tế bào thần kinh xung quanh đồi thị.
Chức năng ngôn ngữ và lời nói
Nói chung, bán cầu não trái chịu trách nhiệm về ngôn ngữ và lời nói. Vì vậy, nó được gọi là bán cầu "ưu thế". Bán cầu não phải có vai trò lớn trong việc xử lý thông tin thị giác và xác định không gian. Trong khoảng một phần ba những người thuận tay trái, vùng chi phối chức năng nói có thể nằm ở bán cầu não phải. Người thuận tay trái có thể cần được làm xét nghiệm chuyên biệt để xác định xem trung tâm ngôn ngữ của họ là ở phía bên trái hay bên phải trước khi được phẫu thuật khu vực đó.
Nhiều nhà thần kinh học cho rằng bán cầu não trái và có thể các phần khác của não bộ rất quan trọng trong ngôn ngữ. Mất ngôn ngữ chỉ đơn giản là một sự rối loạn về chức năng ngôn ngữ. Một số vùng nhất định của não chịu trách nhiệm cho một số chức năng chuyên biệt về ngôn ngữ. Có rất nhiều loại mất ngôn ngữ, tùy thuộc vào vùng não nào bị tổn thương và vai trò của vùng đó trong vấn đề ngôn ngữ.
Có một vùng ở thùy trán của bán cầu não trái được gọi là vùng Broca. Bên cạnh nó là các vùng kiểm soát sự chuyển động của cơ mặt, lưỡi, hàm và cổ họng. Nếu vùng này bị tổn thương, người này sẽ gặp khó khăn trong việc phát âm, vì không có khả năng cử động lưỡi hay cơ mặt để tạo ra âm của từ ngữ. Một người bị mất ngôn ngữ Broca vẫn có thê đọc và hiểu được ngôn ngữ nói, nhưng gặp khó khăn trong việc nói và viết.
Có một vùng ở thùy dương trái gọi là vùng Wernicke. Tổn thương vùng này gây ra chứng mất ngôn ngữ Wernicke. Khi đó người này có thể tạo ra âm thanh lời nói, nhưng lời nói đó vô nghĩa (mất tiếp nhận ngôn ngữ) vì những âm thanh đó không có bất kỳ ý nghĩa gì.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét