Cấu tạo cơ thể con người theo Đông y
heo Đông y con người được cấu tạo bởi các bộ phận quan trọng sau:
– Hệ thống nội tạng: đó là hệ thống tạng phủ và các phần liên đới các tạng phủ này.
Trong cơ thể con người có ngũ tạng là:
+ Tâm: tạng Tâm là trái tim của con người, đó là nơi sinh huyết và vận
hành huyết. Sở dĩ gọi là sinh huyết vì chỉ có tại Tâm huyết mới có đầy
đủ mọi tính chất của huyết chất (do tứ tạng còn lại góp sinh) mà từ đó
mới vận chuyển đến tế bào mà nuôi dưỡng sự sống.
+ Can: tạng Can là lá gan của con người, đó là nơi huyết chất được nhiếp sinh mà thanh lọc các chất có hại.
+ Tỳ: tạng Tỳ là lá lách của con người, đó là nơi huyết chất được sinh hủy mà trí sinh để thành huyết.
+ Phế: tạng Phế là lá phổi của con người, đó là nơi hô hấp để cung cấp dưỡng khí của huyết.
+ Thận: tạng Thận là hai quả thận (bồ dục) của con người là nơi phát
sinh ra nguyên chất của cơ thể từ tuyến thượng thận đó là tinh.
+ Ngoài ra còn có tạng định danh là tạng Tâm bào, tức là màng bao của
tim, tạng Tâm bào quan trọng vì chính tạng Tâm bào cung cấp nhiệt năng
cho huyết và chất và cho toàn cơ thể.
Các lý luận cơ bản của Đông y về ngũ tạng như sau:
+ Ngũ tạng ngũ hành: Tâm là hành Hỏa, Can là hành Mộc, Phế là hành Kim, Tỳ là hành Thổ, Thận là hành Thủy (xem hình).
+ Ngũ tạng sổ tàng: Tâm tàng Thần, Can tàng Hồn, Phế tàng Phách, Tỳ tàng
Ý và Trí, Thận tàng Tinh và Chí. Đó là “thất thần” trong quan điểm của
Đông y.
+ Ngũ tạng sở chủ: Tâm chủ Huyết, Can chủ Gân, Tỳ chủ Cơ nhục, Phế chủ Khí, Thận chủ Tinh và Xương cốt.
Ngũ tạng là nơi phát sinh ra ngũ khí hoạt động trong 12 kinh mạch
chính trong cơ thể. Mọi hoạt động trong cơ thể đều là sự liên hợp các cơ
năng và chức năng của cơ thể mà thành.
Trong cơ thể có lục phủ là:
+ Tiểu trường: phủ Tiểu trường là ruột non trong cơ thể nơi thực cốc
được hóa lọc lần thứ hai (sau Vị). Tiểu trường quan hệ biểu lý với tạng
Tâm.
+ Đại trường: phủ Đại trường là hệ thống ruột già hệ thống lọc chất xác
cuối cùng của thực cốc mà tống ra ngoài từ giang môn (hậu môn). Đại
trường quan hệ biểu lý đồng cặp với tạng Phế.
+ Vị: phủ Vị là dạ dày trong cơ thể, là nơi lọc thực cốc đầu tiên từ thực quản xuống. Vị và tạng Tỳ quan hệ biểu lý với nhau.
+ Bàng quang: phủ Bàng quan là bọng đái trong cơ thể nơi lọc trong đục
cuối cùng của chất trong từ Tiểu trường chất đục được thải ra ngoài theo
đường tiểu (niệu đạo) còn chất trong và Đởm lên Tỳ để làm dịch chất.
Phủ Bàng quang quan hệ biểu lý với tạng Thận.
+ Tam tiêu: phủ Tam tiêu là hệ thống màng mỡ trong ổ bụng có phân ra
Thượng tiêu, Trung tiêu và Hạ tiêu. Phủ Tam tiêu đón nhiệt từ Tâm bào
đưa xuống để ngấu nhừ thực cốc.
– Hệ thống cốt – tủy: là hệ thống tối quan trọng là cơ sở vật chất
của sự sống, đồng thời lại là nơi thần khí hoạt hóa mà thành Thần.
+ Tủy chất: tủy chất nằm ở giữa xương cốt. Tủy chất ở các nơi đều có
nhiệm vụ khác nhau. Thanh chất của tủy được hoạt hóa thành Tinh rồi từ
đó hóa thành Khí, tạo thành Thần. Đục chất của tủy là tố chất sinh huyết
chất và tạo sinh các thành phần tế bào cho cơ thể.
+ Hệ cốt xương: đó là tạo hình của cơ thể là cơ sở của các hoạt động mang tính chất cơ học của con người.
– Hệ thống cân – mạch:
+ Cân: là gân liên kết hệ xương và phối hợp cùng với cơ tạo ra các hoạt động di chuyển.
+ Mạch: có hai loại kinh khí và mạch huyết.
* Kinh khí: là hệ thống các đường vận hành của khí trong cơ thể. Kinh
khí bao gồm mạch Nhâm Đốc cho chân khí, 12 kinh mạch chính cho ng4 khí,
Bát mạch kỳ kinh liên hợp ngũ khí, các mạch Tôn lạc cho Vệ khí phát
Dương ra da.
* Mạch huyết: là hệ thống mạch máu nơi huyết đi ra (mạch dương – động
mạch) và đi vào (mạch âm – tĩnh mạch) và các mao mạch khắp cơ thể.
Khi khí và mạch huyết chạy khắp nơi trong cơ thể để nuôi dưỡng và vận
hành hoạt động sống và tồn tại của cơ thể. Do khí là chất vô định nên
kinh khí cũng vô định. Huyết là định hình nên hyết mạch định hình.
– Hệ thống ngũ quan:
Hệ thống ngũ quan là hệ thống năm giác quan của cơ thể, mà thông qua đó
thất thần vận hành, mà con người đảm bảo mối quan hệ mật thiết với thế
giới bên ngoài. Trong Đông y ngũ quan lại là khai khiếu của ngũ khí.
Hệ thống ngũ quan bao gồm:
+ Mắt: cơ quan thị giác là khai khiếu của Can khí, là nơi hồn Can biểu
thị. Mắt được coi là đệ nhất ngũ quan, chủ nhân thần khí sắc của con
người. Mọi sự biến loạn của bệnh lý trong cơ thể mà ảnh hưởng tới nhân
thần là bệnh đã nặng, tật đã lâu và cái chết được báo trước.
+ Tai: cơ quan thính giác là khai khiếu của Thận khí.
+ Mũi: cơ quan khứu giác là khai khiếu của Tỳ khí.
+ Lưỡi, miệng: cơ quan vị giác là khai khiếu của Tâm khí.
+ Da lông: cơ quan xúc giác là khai khiếu của Phế khí.
Ngũ dịch của ngũ khí ngũ tạng thoát ra là:
+ Mồ hôi là dịch thoát của Tâm khí thoát ra da.
+ Nước mắt là dịch thoát của Can khí thoát ra ở mắt.
+ Nước mũi là dịch thoát của Phế khí thoát ra ở mũi.
+ Nước miếng là dịch thoát của Tỳ khí thoát ra ở miệng.
+ Nước tiểu là dịch thoát của Thận khí thoát ra ở đường tiểu là quan niệm về hoạt động sống của con người.
Hoạt động sống của con người lấy cơ sở là các sự hoạt động khác nhau
của ngũ tạng. Hoạt động sống của con người có thể chia làm hai loại hình
là sống và tồn tại.
+ Hoạt động sống: là các quá trình sinh học trong con người để đảm
bảo sự nuôi dưỡng cơ thể. Sự nuôi dưỡng này được chia làm hai quá trình
chính nhằm tạo ra cho huyết chất đầy đủ dưỡng chất cho toàn bộ cơ thể.
* Quá trình hô hấp: với sự hô hấp của Phế, Vị để cung cấp dưỡng khí cho huyết và đẩy thực khí ra bên ngoài.
* Quá trình tiêu hóa: với sự tiêu hóa trong hệ thống ruột (gồm Vị, ruột non) cung cấp cho huyết dưỡng chất.
Bên cạnh hai quá trình trên là quá trình hóa vận sinh ra khí để hoạt
hóa các cơ năng nội tạng. Quá trình này là quá trình “đốt tinh thành
khí”. Theo các quan niệm của môn pháp khí công thì quá trình tạo khí
cũng là quá trình hoạt động của ngũ tạng với nguyên lý “hạ tâm hỏa” góp
tốn phong đốt tinh thành khí đi lên. Về khí cạnh khác có thể hiểu là sự
giao hòa của hỏa cung (Tâm – Phế – Tâm bào) với thủy cung (Thận – Đan
điền) tạo ra phần thực là huyết phần hư là khí. Hoạt động sống của con
người hoàn toàn dựa trên cơ sở của mối quan hệ giữa khí – huyết. Khí và
huyết đều có nguồn gốc vật chất là từ tủy sống. Phần thực của tủy tạo ra
huyết còn phần thanh của tủy tạo ra tinh rồi từ tinh thành khí. Khí
huyết đều nhờ hoạt động của ngũ tạng mà hóa sinh. Mối quan hệ Khí –
Huyết là mối quan hệ bản chất của sự sống đó là quan hệ của Tâm (huyết) –
Thận (khí), của âm (khí) – dương (huyết); của thủy (khí) – hỏa (huyết).
Khí – huyết phải hòa đồng do đó Tâm Thận phải giao hòa, âm – dương phải
thăng giáng, thủy – hỏa phải ký tế. Đó cũng là yêu cầu bất di bất dịch
của sự sống. Từ mối quan hệ của khí – huyết, ngũ tạng còn tạo ra các thứ
dịch chất cơ bản. Can sinh tân, Tỳ sinh dịch chất lưu thông trong nội
tạng cơ thể.
+ Hoạt động tồn tại:
Hoạt động tồn tại là hoạt động xác định các cơ năng của các bộ phận
trong cơ thể được phát động, mà tạo ra sự tồn tại con người với đầy đủ
mọi ý nghĩa.
Hoạt động tồn tại của con người dựa trên cơ sở là thần tức là hoạt
động mang đặc tính cao của sự tồn tại của con người. Thần là cơ sở của
cảm giác, của hoạt động tâm lý và hoạt động tri giác của con người.
Thận được tạo ra từ quá trình hoạt hóa biến vi từ tinh thành khí, từ
khí tạo thần. Bởi vậy tam bảo Tinh – Khí – thần trở thành hoạt động sống
còn của vận mệnh con người. Con người muốn sống được là phải còn tinh
rồi từ tinh tạo ra khí, rồi tiếp tục từ khí tạo ra thần, quá trình này
phải được đảm bảo tuyệt đối tốt từ đầu đến cuối. Bất cứ một biến động
nào của quá trình này đều là điều không tốt, biến động nhẹ là bệnh, biến
động vừa là tật, biến động mạnh là tuyệt mạng.
Khí có khí hậu thiên là Phế khí (dưỡng khí) và Vị khí (thực khí). Khí
tiên thiên là chân khí và ngũ khí. Chân khí được tạo ra từ tinh tiên
thiên, ngũ khí là chân khí đi vào ngũ tạng mà phát ra.
Tinh có tinh hậu thiên là sinh thực chất tức là yếu tố cơ bản của
hoạt động duy trì nòi giống. Tinh tiên thiên là tinh tàng ở tuyến thượng
thận rồi từ đó tạo ra khí tiên thiên, tức là chân khí trơng người.
Thần là hoạt hóa của khí tiên thiên (chân khí và ngũ khí) qua bước
trung gian là thần khí với sự phân định như sau của thất thần:
Phách – Ý – Chí – Trí – Hồn – Thần
Thể thần khí Dụng thần khí Thần
những tình trạng căn bệnh da liễu tồn tại vĩnh viễn trên da thường trải thông qua các thời kỳ hoặc phòng khám da liễu ở Ninh Thuận chu kỳ với các biểu hiện. một vài tình trạng chẳng thể chữa hết tuy nhiên có thể thuyên giảm. mặc dù vậy, nếu bạn bị stress, hoặc mắc các căn bệnh khác, hoặc bị lao lực thì bệnh có thể tái phát.nếu như da bị đau, bạn có thể sẽ được b.sĩ chỉ định dùng thuốc bớt đau. Trong tình trạng da bị lở loét, tổn thương, hoặc bệnh dễ lây truyền, có thể b.sĩ sẽ cho thuốc mỡ để thoa cùng với băng gạc để đắp kín.
Trả lờiXóa