Những bài thuốc từ con rắn
Trên
thế giới có hàng nghìn loài rắn, trong đó có hàng trăm loài rắn độc. Ở
Việt Nam có gần 200 loài rắn, trong đó có 41 loài rắn độc, 17 loài rắn
trên cạn, 24 loài rắn biển, 116 loài rắn nước. Rắn là một dược liệu quý,
được sử dụng làm thuốc từ lâu. Nhìn từ góc độ y học cổ truyền, mỗi bộ
phận trên con rắn đều được sử dụng để chữa bệnh.
Trong
biểu trưng của ngành y, con rắn quấn quanh cây gậy phép của Esculape -
thần bổn mệnh của các thầy thuốc, tượng trưng cho sự khôn ngoan, khả
năng chữa bệnh và cả sự trường thọ. Trong biểu tượng của ngành dược cũng
sử dụng con rắn nhưng nó quấn quanh một cái li có chân, chiếc li bên
trong chứa dịch chiết các loại thực vật của nữ thần sức khỏe Hygia - con
gái của thần Esculape. Con rắn tượng trưng cho sức khỏe và sự trẻ trung
(bởi chúng tự lột da để trẻ hóa).
1. Thịt rắn:
Các
công trình nghiên cứu về thịt rắn đã công bố cho thấy, trong thịt rắn
cạn có chứa các chất protit và axit amin, trong đó có nhiều axit amin
rất cần thiết cho cơ thể như lycin, leucin, arginin, valin; thịt rắn
biển về cơ bản cũng giống thịt rắn cạn. Thịt rắn không những là một vị
thuốc bổ dưỡng mà còn chữa được nhiều chứng bệnh thần kinh đau nhức, bất
toại, các cơn co giật...
- Tính vị: ngọt, ấm, hơi độc.
- Công dụng: khu phong, hoạt lạc, sát trùng, giảm ngứa.
- Chủ trị: phong thấp, vết loét lâu lành.
- Dạng dùng: làm ruốc, chả, nấu canh… ăn để bồi bổ sức khỏe.
Dạng
thường dùng nhất là ngâm rắn với rượu để uống. Dùng 3-9 con rắn (trong
đó có 1 con rắn hổ mang chúa), sau khi mổ bỏ hết phủ tạng và mỡ, lau
sạch cả trong lẫn ngoài bằng giấy bản tẩm cồn hoặc rượu, cho vào bình.
Để tăng tác dụng và làm mất mùi tanh của rắn, cho thêm tắc kè, cá ngựa,
chim bìm bịp và một số vị thuốc: sâm, đương quy, thục địa, mật ong... Đổ
rượu trắng 40 độ ngập các thứ trong bình, nút kín, ngâm 100 ngày trong
chỗ tối. Khi dùng uống đều đặn mỗi ngày 20-40 ml, có tác dụng chữa đau
mỏi xương khớp, làm thông máu, tráng dương, tăng số lượng tinh trùng và
sự di chuyển của tinh trùng.
2. Da rắn:
Da rắn được tách ra khi giết rắn. Dùng tươi hoặc sấy khô.
- Công dụng: sát trùng, sạch vết thương.
- Chủ trị: vết loét lâu lành, đau răng.
- Dạng dùng: sấy khô, tán bột, dùng chấm vào chỗ răng bị đau.
- Liều dùng: lượng phù hợp.
3. Mật rắn:
Túi
mật rắn to bằng hạt ngô, mật rắn là chất lỏng sánh, không đắng như mật
của các loài động vật khác, khi nếm lúc đầu chỉ thấy hơi đắng, sau có vị
ngọt, mùi thơm. Mật rắn có nhiều axit mật (cholic, ursodesoxycholic,
glycocholic, hydrosodesoxycholic, β-fokecholic) và các chất cholesterin,
taurin, axit palmitic, axit stearic... Mật rắn dùng tươi hoặc sấy khô,
cũng có thể buộc chặt đầu ống túi mật đem treo ở chỗ thoáng mát cho khô
tự nhiên rồi ngâm với rượu (gọi là xà đởm tửu) hoặc tẩm vào vỏ quýt già
đã phơi sấy khô (gọi là xà đởm trần bì).
- Tính vị: ngọt, đắng, hơi hàn, hơi độc; vào kinh can và kinh tỳ.
-
Công dụng: sát trùng trừ cam tích, sáng mắt trừ mộng, tiêu sưng giảm
đau. Do rắn là loại động vật chỉ ăn thức ăn có nguồn gốc động vật, có
những loại rất độc như cóc nên người ta cho rằng mật rắn có tác dụng
tiêu viêm, trừ thấp rất mạnh.
- Chủ trị: trẻ em cam tích, lỵ lâu ngày không khỏi, đau bụng do giun sán, đau mắt có mộng thịt.
- Dạng dùng: hòa 1-1,5g mật tươi với rượu để uống hoặc nuốt nguyên cả cái rồi chiêu bằng rượu; dùng ngoài với liều phù hợp.
4. Máu rắn:
Máu rắn được lấy khi giết rắn.
- Công dụng: khu phong, trừ thấp.
- Chủ trị: đau xương khớp do phong thấp, đau lưng, chân tay tê bì.
-
Dạng dùng: uống tươi mỗi lần 25 ml (dùng rượu để chiêu), hoặc pha với
rượu để uống. Mỗi ngày dùng một lần, liên tục trong 5-7 ngày.
5. Xác rắn lột:
Thu
hoạch xác rắn trong mùa rắn lột xác (nhiều nhất từ tháng 4 đến tháng 10
hằng năm), rửa sạch, phơi khô và bảo quản nơi khô ráo. Trong xác rắn có
các chất kẽm oxyd, titan oxyd, một số loài rắn có flavonoid.
- Tính vị: tính bình, vị ngọt mặn, hơi tanh.
- Công dụng: khu phong, an thần, trừ mộng thịt ở mắt, giảm ngứa. Xác rắn lột còn có tác dụng sát khuẩn, chống viêm, giải độc.
- Chủ trị: chữa chứng co giật, ngứa ngoài da do phong chẩn, các vết loét, vết bỏng lâu ngày không khỏi.
-
Dạng bào chế và cách dùng: sau khi rửa sạch, loại bỏ tạp chất, phơi
khô, dùng rượu hoặc cam thảo hoặc mật ong chế, nghiền thành bột dùng bôi
xoa bên ngoài để trị: chốc mép, tổ đỉa, ghẻ lở, ướt rốn; cũng có thể
đốt cháy xác rắn lột thành than rồi thổi vào lỗ tai để chữa viêm tai
giữa. Dưới hình thức sắc uống (6-12g/ngày) có tác dụng trị chứng đau cổ
họng, trẻ em động kinh co giật. Một số nghiên cứu hiện nay cho thấy xác
rắn lột có tác dụng kháng viêm và ngăn ngưng kết hồng cầu, độc tính của
vị thuốc xác rắn rất thấp.
6. Nọc rắn:
Thu
hoạch nọc rắn bằng cách để răng độc của rắn tỳ vào thành hộp Petri,
dùng ngón tay cái và ngón tay trỏ bóp nhẹ vào hai bên mang tai rắn để
kích thích tuyến nọc độc nằm ở dưới da mỗi bên mang tai, nọc rắn sẽ chảy
vào răng độc rồi theo r•nh của răng độc chảy vào hộp Petri (mỗi con rắn
cho khoảng 0,25 ml nọc mỗi lần lấy). Làm khô nọc tươi bằng hóa chất
hoặc sấy trong chân không, rồi đóng vào ống thủy tinh, hàn kín lại, bảo
quản ở nơi thoáng mát, ánh sáng yếu trước khi đem chế thuốc dùng.
- Công dụng: hoạt huyết, thông lạc.
-
Chủ trị: chữa bệnh mạch vành, hoại tử cơ tim, xơ cứng mạch máu não,
viêm nội mạc mạch máu, xơ cứng bì… Đặc biệt từ nọc rắn, người ta chế ra
huyết thanh kháng độc để chữa rắn cắn.
Những
nghiên cứu hiện nay cho thấy nọc rắn có tác dụng đến hệ thống đông máu,
tác động đến tim, gan, thận, hệ thống thần kinh… Nọc rắn có tác dụng
kháng viêm, ảnh hưởng đến chức năng miễn dịch…
7. Mỡ rắn:
Lấy
mỡ rắn bằng cách mổ bụng rắn, tách các phiến mỡ màu trắng ngà ở xung
quanh ống tiêu hóa. Rán nhỏ lửa cho mỡ chảy ra hết, để nguội rồi rót vào
chai, lọ tối màu, đậy nắp kín, bảo quản ở nơi khô ráo, tránh ánh sáng.
Dùng mỡ rắn bôi xoa nhiều lần lên vết bỏng, chỗ đầu bị chốc có tác dụng nhanh lên da non.
8. Cao rắn toàn tính:
Dùng
3-7 loại rắn (trong đó có 1 con rắn hổ mang chúa), cắt tiết, lấy bỏ nội
tạng, rửa sạch bằng cồn. Cho thêm một số vị thuốc có tác dụng trừ thấp,
kiện tỳ, bổ thận, nấu cao toàn tính.
Khi
sử dụng mỗi ngày dùng 3-5g hấp cơm, ăn trước bữa tối; cũng có thể dùng
100g cao pha với 1 lít rượu trắng 40 độ, uống mỗi ngày 20-40 ml. Cao rắn
toàn tính đặc trị bệnh viêm khớp, thoái hóa khớp.
TS. ĐẶNG QUỐC KHÁNH
Cục Quân y
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét