waveometa menu

Thứ Năm, 7 tháng 3, 2013

Tìm ra chất lạ biến bà già thành thiếu nữ

Tìm ra chất lạ biến bà già thành thiếu nữ

iới khoa học khẳng định, các loại kem dưỡng da chống lão hóa thực sự có tác dụng nhưng chỉ khi chúng có chứa một thành phần “ma thuật” là hóa chất có tên gọi matrixyl.

Các thử nghiệm phát hiện, chất matrixyl trong kem chống lão hóa có khả năng đảo ngược tác động của thời gian đối với làn da phụ nữ. Thứ “vũ khí bí mật” này gần như làm tăng gấp đôi việc sản sinh collagen - loại protein chống nếp nhăn, duy trì vẻ tươi trẻ và căng tràn nhựa sống cho làn da.
Chất matrixyl trong kem chống lão hóa có khả năng làm tăng gấp đôi việc sản sinh collagen, duy trì vẻ tươi trẻ cho làn da. Ảnh: Corbis 
Nhà hóa học Ian Hamley, người đang nghiên cứu sử dụng collagen trong việc hàn gắn vết thương, đã xem xét ảnh hưởng của matrixyl đối với các mảng tế bào da trên một cái đĩa.
Theo kết quả nghiên cứu của ông Hamley được công bố trên tạp chí Molecular Pharmaceutics, ở nồng độ cao, hóa chất này sẽ làm tăng đáng kể lượng collagen được sản sinh.
Vị giáo sư đến từ trường Đại học Reading tuyên bố: “Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy các sản phẩm chứa chất matrixyl sẽ mang lại những lợi ích chăm sóc da. Những nghiên cứu như thế này rất quan trọng đối với người tiêu dùng vì các công ty mỹ phẩm hiếm khi hé lộ bí quyết của mình nhăm đề phòng bị đối thủ sao chép sản phẩm”.
Một số nghiên cứu trước đây từng đặt ra nghi vấn đối với tác dụng của các loại kem dưỡng da chứa collagen vì cho rằng nó không thể thâm nhập vào da để phát huy hiệu quả. Tuy nhiên, matrixyl – một loại peptide hay đoạn protein ngắn – thực sự kích thích sản sinh collagen từ bên trong da.
Lisa Haynes, biên tập viên mục làm đẹp của hãng thông tấn AP, nhận định: “Các loại kem chống lão hóa thường khoe khoang về việc chứa đầy các peptide nhưng không chuyên biệt về loại nào. Hiện bí mật đã được khám phá và có một số bằng chứng khoa học cho những đặc tính tăng cường collagen của matrixyl. Do đó, phụ nữ sắp tới sẽ đổ xô đi mua những sản phẩm dưỡng da chống lão hóa có chứa hóa chất này”.

 

Viêm nướu liên quan rối loạn cương dương

Nam giới ở tuổi ba mươi bị viêm nướu răng do mắc bệnh nha chu nặng có nguy cơ bị chứng rối loạn cương dương tăng gấp 3 lần, theo health24.com dẫn kết quả một nghiên cứu.

Các nhà khoa học thuộc Đại học Inonu (Thổ Nhĩ Kỳ) rút ra kết luận này sau khi khảo sát nam giới từ 30-40 tuổi: một nhóm bị rối loạn cương dương và nhóm không bị chứng này.
Viêm nướu răng liên quan rối loạn cương dương
 Nam giới cần chăm sóc răng miệng tốt - Ảnh: Shutterstock
Kết quả cho thấy 53% nam giới bị rối loạn cương dương bị viêm nướu răng so với 23% ở nhóm đối chứng.
Sau khi tính đến các yếu tố như tuổi tác, chỉ số khối cơ thể, thu nhập và trình độ học vấn, các nhà khoa học nhận thấy những nam giới mắc bệnh nha chu nặng có nguy cơ bị rối loạn cương dương tăng gấp 3,29 lần so với nam giới có nướu răng khỏe mạnh.
“Rối loạn cương dương là một vấn đề sức khỏe ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của khoảng 150 triệu nam giới trên toàn thế giới và người bạn đời của họ”, trưởng nhóm nghiên cứu, tiến sĩ Faith Oguz thuộc Đại học Inonu nói.
Huỳnh Thiềm

Những khả năng siêu phàm của phụ nữ

Những khả năng siêu phàm của phụ nữ

Tất cả đều sở hữu những khả năng siêu phàm mà không mấy ai có thể làm được.

1. Người tự phát sáng Kỳ lạ thay hầu hết những hiện tượng tự phát sáng cơ thể của mình lại rơi vào những người đang bị bệnh.
 

Bà Anna Monaro bị bệnh hen suyễn trong suốt vài tuần, thế nhưng kỳ lạ ở chỗ khi bà đang say sưa giấc nồng thì ngay trên ngực của bà phát ra một luồng ánh sáng màu xanh nước biển.
2. Nữ phù thủy có khả năng thôi miên đồ vật Nina sinh ra và lớn lên ở Leningrat. Tới năm 14 tuổi, thành phố quê hương của Nina bị Đức Quốc xã tấn công. Nina cùng cha và các anh chị em cùng tham gia vào quân đội Nga. Sống trong điều kiện chiến tranh đã quen nhưng cô bé vẫn không khỏi cảm giác kinh hoàng khi nhớ lại 900 ngày chiến đấu chống lại quân Đức ở Leningrat.
 
Sau 900 ngày khủng khiếp, Nina sống sót với một vết thương nặng trên cơ thể do trúng mảnh pháo của địch. Không biết những ngày tháng kinh hoàng cùng với cảm giác cận kề cái chết khi bị thương nặng có tác động đặc biệt đến tâm lý hay hệ thần kinh của Nina không. Chỉ biết rằng Nina kết thúc công việc phục vụ cho quân đội và bắt đầu được biết tới với khả năng tâm linh hiếm có của mình. Nina Kulagina nói rằng trước khi được các nhà khoa học biết tới bà đã ý thức được mình có sức mạnh tâm linh. Một lần, trong tâm trạng vô cùng tức giận, Nina đi tới lấy chiếc ly được đặt ngay ngắn trên cái kệ. Thật kì lạ, cho dù chưa bước tới, chưa chạm vào cái kệ, chiếc ly đột nhiên chuyển động rơi xuống đất rồi vỡ tan thành những mảnh nhỏ. Rồi có những thay đổi lạ trong căn hộ của bà như đèn đột nhiên tắt rồi lại bật, đồ vật chuyển động và dường như chịu tác động bởi suy nghĩ của bà. Dần dần,bà phát hiện ra rằng, nếu cố gắng, bà hoàn toàn có thể kiểm soát được những điều này. 3. "Nữ hoàng uốn dẻo" Zlata  Từ năm lên 4 tuổi, Zlata, tên thật là Julia Gunthel,đã bắt đầu luyện tập uốn dẻo, chính vì thế cô có thể dễ dàng hoàn thành nhiều động tác mà người thường dù có nghĩ đến cũng không dám tin sẽ thực hiện được.
 
Zlata cũng cho biết hàng ngày cô đều tập luyện rất chăm chỉ và thường xuyên tham gia đào tạo cho các show diễn trên khắp thế giới. Với biệt danh nữ hoàng uốn dẻo, Zlata đã nổi tiếng trên toàn thế giới bằng khả năng đặc biệt của mình. 4. Cô gái khỏe nhất thế giới  Cô gái người Ukraine Akulova từng được sách kỷ lục Guinness 2 lần công nhận là cô gái khỏe nhất thế giới. Dù sở hữu một thể hình bình thường, không quá cơ bắp như các lực sĩ, cô vẫn có sức mạnh đáng nể và khiến giới khoa học không khỏi ngạc nhiên. Lúc 3 tuổi, cô biết đọc. Khi 10 tuổi, Varya tìm được một công việc trong rạp xiếc với mẹ và bố vốn là các nghệ sĩ nhào lộn. Tiền lương của cô lúc đó là dưới 10 USD mỗi chương trình biểu diễn. Cô đang sống ở thị trấn khai thác mỏ Krivoy Rog. Năm nay 20 tuổi, Varya thường ngày chỉ ăn mì ống vì gia đình cô khá nghèo.
 
Tất cả gia đình cô sống trong một căn phòng rộng 8 m2 ở khu nhà giành cho các thợ mỏ. Akulova thường tập luyện thể lực trong một nhà kho rộng 5 m2. Dù phải làm việc chăm chỉ để phụ giúp gia đình, cô luôn là một học sinh xuất sắc trong lớp.  Bố của Varya và huấn luyện viên Yuri Akulov nói rằng, họ luôn biết cô gái này sẽ trở thành một vận động viên tài năng trong tương lai. Varya tin rằng một ngày nào đó cô sẽ trở thành nhà vô địch Olympic. Cô cũng luôn mơ ước sở hữu thân hình to lớn, cao khoảng 1m90 và nặng khoảng 100kg để tương xứng với sức mạnh hiện tại. 5. Cô nàng nuốt kiếm  Là một nghệ sĩ nuốt kiếm chuyên nghiệp của Hiệp hội nuốt kiếm quốc tế (SSAI), cô gái Asia Ray 20 tuổi được xem là 1 trong những cô gái "đặc biệt" nhất.
 
Để có được khả năng đặc biệt này, Asia Ray đã nhận được sự hỗ trợ của gia đình từ năm 13 tuổi. Cha mẹ của Ray là Todd và Danielle Ray – những nghệ sĩ “quái đản” của show diễn Venice Beach Freakshow tại Los Angeles (Mỹ). Ngoài nuốt kiếm, cô gái xinh đẹp này còn nuốt lửa, động vật hay cả móc áo.

 

Muối có liên quan đến những bệnh tự miễn dịch

Muối có liên quan đến những bệnh tự miễn dịch

Chế độ ăn uống có quá nhiều muối có thể là một trong những nhân tố làm tăng nguy cơ mắc phải những bệnh tự miễn dịch, chẳng hạn như bệnh đa xơ cứng, theo AFP.

Ba cuộc nghiên cứu đăng tải trên tạp chí Nature vào ngày 6.3 đã chứng minh điều đó.
Trong ba nghiên cứu này, có hai nghiên cứu cho thấy muối dẫn đến sự sản sinh các tế bào ác tính có liên quan đến những bệnh tự miễn dịch ở chuột và cả người.
Trong khi đó, nghiên cứu thứ ba cho thấy chuột ăn nhiều muối thì sẽ mắc bệnh tương tự như bệnh đa xơ cứng ở người.
"Tuy vậy, có lẽ vẫn còn khá sớm để nói rằng không nên ăn muối vì muối làm bạn mắc phải những bệnh tự miễn dịch", theo ông Aviv Regev từ Viện Công nghệ Massachusetts (Mỹ), một thành viên của nhóm nghiên cứu.
Trong hai nghiên cứu ở chuột và người, các nhà nghiên cứu nhận thấy muối thúc đẩy sự phát triển của một loại tế bào miễn dịch có tên là Th17. Tế bào Th17 vốn được cho là có liên quan đến bệnh đa xơ cứng, bệnh vẩy nến và bệnh viêm khớp dạng thấp.
Những bệnh tự miễn dịch phát triển khi hệ miễn dịch tấn công chủ thể hơn là bảo vệ.
Theo ông Vijay Kuchroo, đồng Giám đốc Trung tâm viêm nhiễm và miễn dịch tại Brigham và Bệnh viện Phụ nữ tại Boston (Mỹ), một thành viên khác của nhóm nghiên cứu, nguyên nhân gây nên những bệnh trên không chỉ là muối.
Các yếu tố môi trường như sự lây nhiễm, hút thuốc, thiếu ánh sáng mặt trời và vitamin D có lẽ cũng là các nguyên nhân gây bệnh.

 

Chủ Nhật, 3 tháng 3, 2013

Kết quả bước đầu ghép khối dịch tủy xương tự thân có tế bào gốc qua cá đường hầm trong điều trị khớp giả thân xương dài

Kết quả bước đầu ghép khối dịch tủy xương tự thân có tế bào gốc qua cá đường hầm trong điều trị khớp giả thân xương dài
Tóm tắt: Nghiên cứu điều trị 41 bệnh nhân khớp giả thân xương dài bằng phương pháp ghép khối dịch tủy xương tự thân có tế bào gốc qua các đường hầm khoan xuyên ổ khớp giả nhằm đánh giá kết quả liền xương và mối liên quan với số lượng tế bào gốc tủy xương. Kết quả cho thấy: khối dịch tủy xương sau tách có số lượng tế bào CD34 (+) là (12,5 ± 8,2) ì 106/ml và số lượng tế bào CD73 (+) là (9,7 ± 3,2) ì 106/ml. Sau thời gian ghép trung bình 8,7 tháng, 92,7% bệnh nhân có can xương độ 2 trở lên và 7,3% bệnh nhân không có can xương (theo thang điểm Lieberman). Số lượng tế bào gốc tủy xương CD34 (+) và CD73 (+) có tác động nhất định tới mức độ can xương. Ghép tế bào gốc tủy xương tự thân qua đường hầm điều trị khớp giả thân xương dài là phương pháp ít xâm lấn, đơn giản và hiệu quả cao.
Abstract: Study on treatment of 41 patients with pseudoarthrosis of shaft diaphysis by method of implantation of autobone marrow fluids with stem cells through trepanation of pseudoarthrosis cavity for assessment of bone healing result and relationship with a number of stem cells of bone marrow. The result showed that: a mass of bone marrow fluids after separation has a number of CD34 (+) cells (12.5 ± 8.2) ì 106/ml and a number of CD73 (+) cells (9.7 ± 3.2) ì 106/ml. After average time of implantation 8.7 months, 92.7% of patients with bone healing over second level and 7.3% of patients without bone healing (by Lieberman scale). A number of stem cells of bone marrow CD34 (+) and CD73 (+) has influence to the level of bone healing. Implantation of stem cells of autobone marrow through tunnel for treatment of pseudoarthrosis of shaft diaphysis is less trepassing, simple and high effective method.
1. Đặt vấn đề
Khớp giả thân xương dài là biến chứng sau điều trị gãy xương với tỉ lệ 2,5-4,4%, do nhiều nguyên nhân gây nên. Việc điều trị khớp giả thân xương dài không đơn giản, có thể để lại nhiều di chứng nặng nề, thậm chí phải cắt cụt chi, đặc biệt với những trường hợp có phần mềm xấu, tiền sử nhiễm khuẩn, khuyết xương hoặc diện gãy teo đét...
Có nhiều phương pháp được đưa ra để điều trị ổ khớp giả thân xương dài. Một trong các phương pháp đó là khoan tạo đường hầm qua ổ khớp giả ít xâm lấn của Beck với mục đích tăng cấp máu tủy xương vào ổ khớp giả, nhằm phát động quá trình liền xương [7]. Dù ghi nhận được những thành công nhất định, nhưng phương pháp này của Beck có tỉ lệ liền xương thấp nên hiện nay không còn sử dụng trên lâm sàng.
Dịch tủy xương là nơi dự trữ tế bào gốc của cơ thể (người trưởng thành, dịch tủy xương chủ yếu ở xương chậu). Nhiều nghiên cứu gần đây đã phân tích các thành phần của dịch tủy xương và tác dụng của chúng thấy rằng tế bào gốc trong dịch tủy xương có khả năng tạo xương mới. Rosin và Friedenstein ghép khối tế bào tủy xương hoặc tủy xương in vitro trong các khoang khuếch tán đều thấy sự hình thành xương và sụn. Friedenstein ghép tủy xương hoặc khối tế bào tủy xương vào các vị trí khác nhau cũng thấy sự tạo xương cùng với sự hình thành tủy tạo máu [4]. Năm 1991, Connolly lần đầu tiên ghép trực tiếp tủy xương tự thân để điều trị khớp giả thân xương chầy cho kết quả liền xương tốt [3]. Năm 2005, Hernigou báo cáo tỉ lệ liền xương đạt 88,3% ở 60 trường hợp khớp giả thân xương chầy, được ghép tủy xương tự thân đã qua xử lý bằng cách sử dụng máy tách tế bào để tăng số lượng và độ tập trung tế bào gốc, cho thấy đây là phương pháp ít xâm lấn, đơn giản và hiệu quả [6].
Tại Việt Nam, các nghiên cứu ứng dụng tế bào gốc điều trị khớp giả còn hạn chế. Năm 2008, Cao Thỉ lần đầu tiên tiến hành ghép dịch tủy xương tự thân nhằm tăng cường liền xương cho ổ gãy thân xương chầy chậm liền [1]. Năm 2010, Nguyễn Mạnh Khánh, Nguyễn Tiến Bình và cộng sự báo cáo 59 bệnh nhân (BN) chậm liền xương, khớp giả thân xương chầy được ghép khối dịch tủy xương tự thân đã qua xử lý tăng số lượng và mật độ tế bào cho tỉ lệ liền xương cao (91,5%) với thời gian theo dõi trung bình 24,2 tuần [2].
Tuy nhiên cho tới nay, việc tiêm một khối lượng lớn dịch tủy xương cô đặc vào vùng xơ của ổ khớp giả theo phương pháp thông thường rất khó khăn, tạo phân bố không đều, thậm chí có thể gây vỡ tế bào hoặc trào ra ngoài da. Các nghiên cứu ứng dụng ghép tủy xương điều trị khớp giả, chậm liền thân xương dài tại Việt Nam cũng như trên thế giới chưa đề cập tới vấn đề này. Do vậy, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này với mục tiêu đánh giá hiệu quả liền xương của ghép khối dịch tủy xương tự thân có tế bào gốc qua các đường hầm trong điều trị khớp giả thân xương dài.
2. Đối tượng và Phương pháp Nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu:
41 BN được chẩn đoán khớp giả thân xương dài sau điều trị bằng kết hợp xương hoặc cố định bột tại Viện Chấn thương chỉnh hình, Bệnh viện Việt Đức, từ tháng 9/2009-11/2011.
Tiêu chuẩn lựa chọn: BN là người trưởng thành (trong độ tuổi từ 16-60), bị khớp giả sau điều trị gãy xương do tác động ngoại lực (không gãy xương do bệnh lý), không bị bệnh cơ quan tạo máu và bệnh cấp tính khác.
Tiêu chuẩn loại trừ: khớp giả lỏng, khớp giả có dấu hiệu nhiễm khuẩn, BN không hợp tác điều trị.
2.2. Phương pháp nghiên cứu:
2.2.1. Phương pháp lấy khối dịch tủy xương tự thân có tế bào gốc:
Dịch tủy xương được lấy từ gai chậu sau trên và mào chậu sau hai bên bằng kim lấy tủy đường kính 3 mm, chống đông bằng Heparin. Khối tế bào đơn nhân có chứa tế bào gốc tủy xương được tách bằng phương pháp ly tâm tỉ trọng, huyền dịch trong nước muối sinh lý với thể tích cuối cùng là 20 ml và được xét nghiệm định lượng tế bào gốc tủy xương, tế bào đơn nhân, tế bào CD34 (+) và CD73 (+) tại Khoa Miễn dịch - Di truyền và Sinh học phân tử, Viện Huyết học Truyền máu Trung ương.
2.2.2. Kỹ thuật ghép:
Khối dịch tủy xương tự thân có tế bào gốc được ghép cho BN trong vòng 10 giờ kể từ khi lấy. Xác định ổ khớp giả thân xương dài trên màn hình tăng sáng (C-arm), dùng khoan (kim Kirschner cỡ 1,4-1,6 mm) tạo các đường hầm xuyên ổ khớp giả từ 2 vị trí khoan phía trong và ngoài thân xương. Tiêm 20 ml huyền dịch có tế bào gốc tủy xương vào vùng khớp giả và xung quanh bằng kim 18G qua 2 vị trí khoan.
2.2.3. Theo dõi sau ghép:
Giữ nguyên phương tiện kết xương hoặc bó bột tăng cường nếu không đủ vững. Với BN khớp giả chi dưới, được phép tỳ một phần với nạng khi có can xương; nếu can xương tiến triển tốt thì tăng dần độ tỳ đến khi tỳ được hoàn toàn. Với BN khớp giả chi trên, được phép hoạt động nhẹ với những động tác không chịu lực; khi có can xương, được chịu lực tăng dần. Nếu xương liền tốt thì tháo bỏ bột hoặc phương tiện kết xương. BN được khám lại và chụp X quang định kỳ sau ghép 1 tháng và mỗi 3 tháng đến khi liền xương để đánh giá tiến triển can xương.
2.2.4. Đánh giá kết quả:
Mức độ can xương được đánh giá dựa trên phim X quang theo thang điểm của Lieberman căn cứ vào sự hình thành xương mới qua ổ gãy: độ 1 (can xương từ 0-25%), độ 2 (can xương 26-50%), độ 3 (can xương 51-75%), độ 4 (can xương 76-99% hay can 3/4 thành xương), độ 5 (can xương 100% hay can toàn bộ thành xương).
- Có can xương là khi BN có hình ảnh can xương ít nhất từ độ 2 trở lên.
- Liền xương là khi có can xương độ 4 hoặc độ 5 và/hoặc không còn đường gãy ở ít nhất 3/4 thành xương trên phim thẳng và nghiêng.
Phân tích, đánh giá mối liên quan giữa thời gian, kết quả và mức độ can xương với số lượng tế bào tủy xương, tế bào CD34 (+) và CD73 (+).
3. Kết quả Nghiên cứu
3.1. Đặc điểm BN:
- Giới tính: 29 nam (70,7%) và 12 nữ (29,3%).
- Tuổi trung bình: 32,2 tuổi.
- Vị trí khớp giả:
+ Xương quay và/hoặc xương trụ: 15 BN (36,6%).
+ Xương cánh tay: 4 BN (9,8%).
+ Xương chầy: 22 BN (53,6%).
- Loại gãy xương ban đầu:
+ Gãy kín: 23 BN (56,1%).
+ Gãy hở: 18 BN (43,9%).
- Phương pháp điều trị và tình trạng BN trước ghép: 8 BN (19,5%) được cố định bột, 25 BN (61%) được kết xương bên trong, 8 BN (19,5%) được cố định ngoài.
9 BN (21,9%) bị xơ sẹo nhiều sau mổ hoặc sau vá da, chuyển vạt che xương... có nguy cơ lộ xương hoặc nhiễm khuẩn cao nếu phải mổ lại.
- Hình ảnh X quang:
+ Khớp giả phì đại: 27 BN (65,8%).
+ Khớp giả teo đét: 14 BN (34,1%).
- Thời gian từ khi gãy xương đến khi ghép khối dịch tủy xương: 7,5-35 tháng (trung bình 10 tháng).
3.2. Số lượng tế bào trong khối dịch tủy xương tự thân:
- Hồng cầu: (1,2 ± 0,6) ì 106/ml.
- Bạch cầu: (63,1 ± 21,2) ì 103/ml.
- Tiểu cầu: (186,3 ± 106,2) ì 103/ml.
- Tế bào CD34 (+): (12,5 ± 8,2) ì 106/ml.
- Tế bào CD73 (+): (9,7 ± 3,2) ì 106/ml.
3.3. Kết quả điều trị:
- Thời gian điều trị tại bệnh viện: 2-5 ngày (trung bình 2,1 ngày).
- Thời gian theo dõi sau ghép: 12-46 tháng (trung bình 24 tháng).
- Mức độ can xương sau ghép 6-14 tháng:
Sau thời gian ghép tế bào gốc tủy xương từ 6-14 tháng (trung bình 8,7 tháng), 38 BN (92,7%) có can xương từ độ 2 trở lên. Tại thời điểm ít nhất 12 tháng, không có mối liên quan giữa mức độ can xương với số lượng tế bào CD34 (+) được ghép cho BN (p > 0,05).
- Số lượng tế bào gốc tủy xương: sau thời gian ghép tế bào gốc tủy xương trung bình 8,7 tháng, các BN liền xương có số lượng tế bào CD34 (+) là (12,7 ± 8,5) ì 106/ml, số lượng tế bào CD73 (+) là (9,8 ± 3,3) ì 106/ml; các BN không liền xương có số lượng tế bào CD34 (+) là (9,3 ± 0,5) ì 106/ml, số lượng tế bào CD73 (+) là (8,7 ± 0,6) ì 106/ml.
4. Bàn luận
4.1. Đặc điểm BN và phương pháp điều trị ghép khối dịch tủy xương:
Đa số BN là nam (70,7%), độ tuổi trung bình trẻ (32,2 tuổi). Đây là đối tượng lao động chính nên cần được điều trị nhanh chóng để khôi phục khả năng lao động. 9 BN (21,9%) có sẹo mổ cũ xấu với nguy cơ lộ xương hoặc nhiễm khuẩn cao nếu phải mổ mở ghép xương.
Ghép khối dịch tủy xương có tế bào gốc qua các đường hầm khoan xuyên ổ khớp giả là phương pháp can thiệp ít tác động nhất đến ổ gãy và phần mềm quanh tổn thương. Chúng tôi giữ nguyên phương tiện cố định xương, khoan tạo các đường hầm và bơm khối dịch tủy xương chứa tế bào gốc nên sau mổ, BN hầu như không phải dùng thuốc giảm đau. Hơn nữa, lỗ khoan chỉ có đường kính 1,4-1,6 mm nên giảm thiểu nguy cơ nhiễm khuẩn, thời gian BN nằm viện ngắn (2,1 ngày). Đây cũng là một trong những ưu điểm của phương pháp điều trị này.
Trong khối dịch tủy xương tự thân của các BN, số lượng tế bào CD34 (+) là (12,5 ± 8,2) ì 106/ml, tương đồng với nghiên cứu của Nguyễn Mạnh Khánh trên 59 BN là (13,8 ± 5,1) ì 106/ml [2]. Mặt khác, số lượng tiểu cầu trong dịch ghép (186,3 ± 106,2) ì 103/ml là khá cao, giúp thúc đẩy sự biệt hóa và sinh sản các tế bào gốc trong quá trình liền xương với yếu tố phát triển nguồn gốc tiểu cầu [1]. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của Nguyễn Mạnh Khánh thì số lượng tế bào gốc tủy xương được ghép tỉ lệ thuận với tỉ lệ can xương [2], cho thấy đây mới là yếu tố quyết định quá trình liền xương của ổ khớp giả.
4.2. Kết quả ghép khối dịch tủy xương có tế bào gốc:
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ can xương là 92,7%. Hernigou và cộng sự (2005) ghép tủy xương tự thân qua da cho 60 BN đạt tỉ lệ can xương 88,3% [6]. Tại Việt Nam, Nguyễn Mạnh Khánh (2010) nghiên cứu ghép tế bào gốc tủy xương với số lượng tế bào CD34 (+) là (13,8 ± 5,1) ì 106/ml cho 59 BN đạt tỉ lệ can xương 91,5% [2]. Có thể thấy kết quả của chúng tôi khá tương đồng với nghiên cứu của Nguyễn Mạnh Khánh cả về số lượng tế bào gốc trong khối dịch tủy xương và tỉ lệ can xương sau điều trị.
Trong quá trình ghép, chúng tôi thấy việc bơm toàn bộ khối dịch tủy xương tự thân có tế bào gốc qua da trên cơ sở các đường hầm khoan xuyên ổ khớp giả dễ dàng hơn, tránh bị thất thoát dịch ghép ra ngoài da so với kỹ thuật ghép bơm trực tiếp khối dịch tủy xương trong các nghiên cứu khác. Chúng tôi cho rằng, chính các đường hầm giúp tăng khả năng phân tán và khuếch tán tế bào gốc tủy xương vào ổ khớp giả cũng như vào các tổ chức xung quanh ổ gãy. Mặt khác, các đường hầm cũng làm tăng cấp máu tủy xương vào ổ khớp giả [7], đưa tới kết quả tốt với tỉ lệ can xương đạt 92,7%. Tuy nhiên, cần có nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này.
Chúng tôi gặp 3 BN (7,3%) chỉ có dấu hiệu can xương độ 1 trên phim X quang (được coi là chưa có can xương trên lâm sàng). Cả 3 BN này sau ghép đều có sự hình thành xương mới, nhưng có thể bị tác động xấu bởi các yếu tố liên quan trực tiếp đến sự can xương (diện gãy khuyết xương nhiều, ổ gãy gập góc, gãy phương tiện kết xương và ổ gãy không được cố định vững chắc). Theo Healey, sự lỏng lẻo của ổ gãy có thể ảnh hưởng đến kết quả can xương khi ghép tủy xương [7].
Số lượng tế bào CD34 (+) và CD73 (+) trong khối dịch tủy xương ghép ở 3 BN chưa có can xương thấp hơn so với 38 BN có can xương. Trong 38 BN có can xương, các BN có số lượng tế bào CD34 (+) và CD73 (+) trong khối dịch tủy xương tự thân được ghép càng cao thì mức độ can xương cũng có xu hướng tăng lên. Tuy nhiên tại thời điểm 12 tháng sau ghép, chúng tôi không thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa mức độ can xương với số lượng tế bào gốc trong khối dịch tủy xương tự thân được ghép cho BN. Theo Hernigou, số lượng tế bào gốc trong tủy xương ghép cho BN ảnh hưởng tới kết quả can xương [6]. Điều này cũng phù hợp với kết quả của Nguyễn Mạnh Khánh và cộng sự [2].
Trong nghiên cứu này, thời gian có can xương trung bình là 8,7 tháng (từ 6-14 tháng). Theo chúng tôi, dường như các tế bào gốc tủy xương cùng với tủy xương đã tái phát động quá trình can xương nên mặc dù tỉ lệ can xương cao nhưng không đẩy nhanh hơn quá trình này. Cao Thỉ (2009) ghép trực tiếp tủy xương không qua xử lý vào ổ gãy hở thân 2 xương cẳng chân đã được cố định ngoài, thấy thời gian liền xương ngắn hơn nhóm không được ghép tủy xương 3,3 tuần [1]. Gần đây, nghiên cứu của Nguyễn Mạnh Khánh và cộng sự cũng cho thấy thời gian liền xương trung bình trong nhóm BN khớp giả xương chầy là 24,6 tuần [2]. Tỉ lệ can xương độ 5 (theo thang điểm Lieberman) trong nghiên cứu của chúng tôi (51,2%) cao hơn so với nghiên cứu của Nguyễn Mạnh Khánh (5,1%) càng cho thấy ưu điểm của phương pháp ghép khối dịch tủy xương qua các đường hầm xuyên ổ khớp giả.
Để xác định các loại tế bào gốc khác nhau của tủy xương trong khi kháng nguyên CD34 đặc trưng cho các tế bào gốc tạo máu, chúng tôi tiến hành định lượng thêm kháng nguyên CD73 là đặc trưng cho tế bào gốc tạo xương (nguồn gốc trung mô) và thấy tế bào CD73 (+) khá cao với số lượng (9,8 ± 3,3) ì 106/ml. Với mục đích xác định gián tiếp số lượng tế bào gốc trung mô (hệ tạo xương), Hernigou nuôi cấy tủy xương của 60 BN khớp giả thân xương chầy thu được trung bình 33 cụm CFU-F/106 tế bào có nhân [6]. Các tác giả đều nhận thấy có mối liên quan thuận: số lượng tế bào có nhân, tế bào CD34 (+) càng nhiều thì số lượng tế bào gốc trung mô càng cao
(p < 0,01). Các tác giả cũng thống nhất rằng tủy xương trước khi ghép vào ổ gãy nên được tách bỏ những tế bào không cần thiết để làm tăng số lượng tế bào gốc cần thiết cho quá trình tạo xương tại ổ gãy [1], [2]. Trong nghiên cứu này, chúng tôi không đủ điều kiện nuôi cấy cụm tế bào CFU-F để đánh giá gián tiếp số lượng tế bào gốc trung mô.
5. Kết luận
Nghiên cứu ghép khối dịch tủy xương tự thân có tế bào gốc qua các đường hầm trong điều trị 41 BN khớp giả thân xương dài, theo dõi sau ghép từ 12-46 tháng, chúng tôi rút ra kết luận:         
- Khối dịch tủy xương sau tách có số lượng tế bào gốc CD34 (+) là (12,5 ± 8,2) ì 106/ml và số lượng tế bào gốc CD73 (+) là (9,7 ± 3,2) ì 106/ml.
- Sau thời gian ghép trung bình 8,7 tháng, tỉ lệ can xương đạt 92,7%, không có can xương 7,3%. Số lượng tế bào gốc CD34 (+) và CD73 (+) có tác động nhất định tới mức độ can xương.
Kết quả trên cho thấy ghép khối dịch tủy xương tự thân có tế bào gốc qua các đường hầm điều trị khớp giả thân xương dài là phương pháp ít xâm lấn, đơn giản, hiệu quả, thời gian BN nằm viện ngắn, an toàn, đặc biệt với những trường hợp gãy hở cũ, nguy cơ nhiễm khuẩn cao. Nên có những nghiên cứu sâu hơn để tìm hiểu và ứng dụng phương pháp này rộng rãi trên lâm sàng.
Tài liệu tham khảo
1. Cao Thỉ (2008), “Tế bào gốc và khả năng sử dụng tế bào gốc trong điều trị”, Tạp chí Y học Việt Nam, số 302 (9), 3-20.
2. Nguyễn Mạnh Khánh (2009), “Hiệu quả của ghép tế bào gốc tủy xương đối với quá trình liền xương trong điều trị khớp giả thân xương chầy”, Tạp chí Y học Việt Nam, số 302 (9), 3-20.
3. Connolly J.F, Guse R, Tiedeman J, Dehne R (1991), “Autologous marrow injection as a substitute for operative grafting of tibial nonunions”, Clin. Orthop., 266, 259-270.
4. Friedenstein A.J, Chailakhyan R.K, Gerasimov U.V (1987), “Bone marrow osteogenic stem cells. In vitro cultivation and transplantation in diffusion chambers”, Cell Tissue Kinet, 20, 263-272.
5. Healey J.H, Zimmerman P.A, Mc Donnell J.M, Lane J.M (1990), “Percutaneous bone marrow grafting of delayed union and nonunion in cancer patients”, Clin. Orthop., 256, 280-285.
6. Hernigou P, Poignard A, Beaujean F, Rouard H (2005), “Percutaneous autologous bone marrow grafting for nonunions. Influence of the number and concentration of progenitor cells”, J. Bone Joint Surg., 87A, 1430-1437.
7. Pusitz M.E, Davis E.V (1944), “Bone-drilling in delayed union of fractures”, J. Bone Joint Sur, vol. 26, N03, 560-565.
ThS. NGÔ BÁ TOÀN, TS. NGUYỄN MẠNH KHÁNH
Bệnh viện Việt Đức
PGS.TS. TRẦN ĐÌNH CHIẾN - Bệnh viện 103
TS. NGUYỄN ĐẮC NGHĨA - Bệnh viện Vinmec
TS. LÊ XUÂN HẢI, PGS.TS. NGUYỄN ANH TRÍ
Viện Huyết học Truyền máu Trung ương
Phản biện khoa học: TS. LƯU HỒNG HẢI

Những bài thuốc từ con rắn

Những bài thuốc từ con rắn
Trên thế giới có hàng nghìn loài rắn, trong đó có hàng trăm loài rắn độc. Ở Việt Nam có gần 200 loài rắn, trong đó có 41 loài rắn độc, 17 loài rắn trên cạn, 24 loài rắn biển, 116 loài rắn nước. Rắn là một dược liệu quý, được sử dụng làm thuốc từ lâu. Nhìn từ góc độ y học cổ truyền, mỗi bộ phận trên con rắn đều được sử dụng để chữa bệnh.
Trong biểu trưng của ngành y, con rắn quấn quanh cây gậy phép của Esculape - thần bổn mệnh của các thầy thuốc, tượng trưng cho sự khôn ngoan, khả năng chữa bệnh và cả sự trường thọ. Trong biểu tượng của ngành dược cũng sử dụng con rắn nhưng nó quấn quanh một cái li có chân, chiếc li bên trong chứa dịch chiết các loại thực vật của nữ thần sức khỏe Hygia - con gái của thần Esculape. Con rắn tượng trưng cho sức khỏe và sự trẻ trung (bởi chúng tự lột da để trẻ hóa).
1. Thịt rắn:
Các công trình nghiên cứu về thịt rắn đã công bố cho thấy, trong thịt rắn cạn có chứa các chất protit và axit amin, trong đó có nhiều axit amin rất cần thiết cho cơ thể như lycin, leucin, arginin, valin; thịt rắn biển về cơ bản cũng giống thịt rắn cạn. Thịt rắn không những là một vị thuốc bổ dưỡng mà còn chữa được nhiều chứng bệnh thần kinh đau nhức, bất toại, các cơn co giật...
- Tính vị: ngọt, ấm, hơi độc.
- Công dụng: khu phong, hoạt lạc, sát trùng, giảm ngứa.
- Chủ trị: phong thấp, vết loét lâu lành.
- Dạng dùng: làm ruốc, chả, nấu canh… ăn để bồi bổ sức khỏe.
Dạng thường dùng nhất là ngâm rắn với rượu để uống. Dùng 3-9 con rắn (trong đó có 1 con rắn hổ mang chúa), sau khi mổ bỏ hết phủ tạng và mỡ, lau sạch cả trong lẫn ngoài bằng giấy bản tẩm cồn hoặc rượu, cho vào bình. Để tăng tác dụng và làm mất mùi tanh của rắn, cho thêm tắc kè, cá ngựa, chim bìm bịp và một số vị thuốc: sâm, đương quy, thục địa, mật ong... Đổ rượu trắng 40 độ ngập các thứ trong bình, nút kín, ngâm 100 ngày trong chỗ tối. Khi dùng uống đều đặn mỗi ngày 20-40 ml, có tác dụng chữa đau mỏi xương khớp, làm thông máu, tráng dương, tăng số lượng tinh trùng và sự di chuyển của tinh trùng.
2. Da rắn:
Da rắn được tách ra khi giết rắn. Dùng tươi hoặc sấy khô.
- Công dụng: sát trùng, sạch vết thương.
- Chủ trị: vết loét lâu lành, đau răng.
- Dạng dùng: sấy khô, tán bột, dùng chấm vào chỗ răng bị đau.
- Liều dùng: lượng phù hợp.
3. Mật rắn:
Túi mật rắn to bằng hạt ngô, mật rắn là chất lỏng sánh, không đắng như mật của các loài động vật khác, khi nếm lúc đầu chỉ thấy hơi đắng, sau có vị ngọt, mùi thơm. Mật rắn có nhiều axit mật (cholic, ursodesoxycholic, glycocholic, hydrosodesoxycholic, β-fokecholic) và các chất cholesterin, taurin, axit palmitic, axit stearic... Mật rắn dùng tươi hoặc sấy khô, cũng có thể buộc chặt đầu ống túi mật đem treo ở chỗ thoáng mát cho khô tự nhiên rồi ngâm với rượu (gọi là xà đởm tửu) hoặc tẩm vào vỏ quýt già đã phơi sấy khô (gọi là xà đởm trần bì).
- Tính vị: ngọt, đắng, hơi hàn, hơi độc; vào kinh can và kinh tỳ.
- Công dụng: sát trùng trừ cam tích, sáng mắt trừ mộng, tiêu sưng giảm đau. Do rắn là loại động vật chỉ ăn thức ăn có nguồn gốc động vật, có những loại rất độc như cóc nên người ta cho rằng mật rắn có tác dụng tiêu viêm, trừ thấp rất mạnh.
- Chủ trị: trẻ em cam tích, lỵ lâu ngày không khỏi, đau bụng do giun sán, đau mắt có mộng thịt.
- Dạng dùng: hòa 1-1,5g mật tươi với rượu để uống hoặc nuốt nguyên cả cái rồi chiêu bằng rượu; dùng ngoài với liều phù hợp.
4. Máu rắn:
Máu rắn được lấy khi giết rắn.
- Công dụng: khu phong, trừ thấp.
- Chủ trị: đau xương khớp do phong thấp, đau lưng, chân tay tê bì.
- Dạng dùng: uống tươi mỗi lần 25 ml (dùng rượu để chiêu), hoặc pha với rượu để uống. Mỗi ngày dùng một lần, liên tục trong 5-7 ngày.
5. Xác rắn lột:
Thu hoạch xác rắn trong mùa rắn lột xác (nhiều nhất từ tháng 4 đến tháng 10 hằng năm), rửa sạch, phơi khô và bảo quản nơi khô ráo. Trong xác rắn có các chất kẽm oxyd, titan oxyd, một số loài rắn có flavonoid.
- Tính vị: tính bình, vị ngọt mặn, hơi tanh.
- Công dụng: khu phong, an thần, trừ mộng thịt ở mắt, giảm ngứa. Xác rắn lột còn có tác dụng sát khuẩn, chống viêm, giải độc.
- Chủ trị: chữa chứng co giật, ngứa ngoài da do phong chẩn, các vết loét, vết bỏng lâu ngày không khỏi.
- Dạng bào chế và cách dùng: sau khi rửa sạch, loại bỏ tạp chất, phơi khô, dùng rượu hoặc cam thảo hoặc mật ong chế, nghiền thành bột dùng bôi xoa bên ngoài để trị: chốc mép, tổ đỉa, ghẻ lở, ướt rốn; cũng có thể đốt cháy xác rắn lột thành than rồi thổi vào lỗ tai để chữa viêm tai giữa. Dưới hình thức sắc uống (6-12g/ngày) có tác dụng trị chứng đau cổ họng, trẻ em động kinh co giật. Một số nghiên cứu hiện nay cho thấy xác rắn lột có tác dụng kháng viêm và ngăn ngưng kết hồng cầu, độc tính của vị thuốc xác rắn rất thấp.
6. Nọc rắn:
Thu hoạch nọc rắn bằng cách để răng độc của rắn tỳ vào thành hộp Petri, dùng ngón tay cái và ngón tay trỏ bóp nhẹ vào hai bên mang tai rắn để kích thích tuyến nọc độc nằm ở dưới da mỗi bên mang tai, nọc rắn sẽ chảy vào răng độc rồi theo r•nh của răng độc chảy vào hộp Petri (mỗi con rắn cho khoảng 0,25 ml nọc mỗi lần lấy). Làm khô nọc tươi bằng hóa chất hoặc sấy trong chân không, rồi đóng vào ống thủy tinh, hàn kín lại, bảo quản ở nơi thoáng mát, ánh sáng yếu trước khi đem chế thuốc dùng.
- Công dụng: hoạt huyết, thông lạc.
- Chủ trị: chữa bệnh mạch vành, hoại tử cơ tim, xơ cứng mạch máu não, viêm nội mạc mạch máu, xơ cứng bì… Đặc biệt từ nọc rắn, người ta chế ra huyết thanh kháng độc để chữa rắn cắn.
Những nghiên cứu hiện nay cho thấy nọc rắn có tác dụng đến hệ thống đông máu, tác động đến tim, gan, thận, hệ thống thần kinh… Nọc rắn có tác dụng kháng viêm, ảnh hưởng đến chức năng miễn dịch…
7. Mỡ rắn:
Lấy mỡ rắn bằng cách mổ bụng rắn, tách các phiến mỡ màu trắng ngà ở xung quanh ống tiêu hóa. Rán nhỏ lửa cho mỡ chảy ra hết, để nguội rồi rót vào chai, lọ tối màu, đậy nắp kín, bảo quản ở nơi khô ráo, tránh ánh sáng.
Dùng mỡ rắn bôi xoa nhiều lần lên vết bỏng, chỗ đầu bị chốc có tác dụng nhanh lên da non.
8. Cao rắn toàn tính:
Dùng 3-7 loại rắn (trong đó có 1 con rắn hổ mang chúa), cắt tiết, lấy bỏ nội tạng, rửa sạch bằng cồn. Cho thêm một số vị thuốc có tác dụng trừ thấp, kiện tỳ, bổ thận, nấu cao toàn tính.
Khi sử dụng mỗi ngày dùng 3-5g hấp cơm, ăn trước bữa tối; cũng có thể dùng 100g cao pha với 1 lít rượu trắng 40 độ, uống mỗi ngày 20-40 ml. Cao rắn toàn tính đặc trị bệnh viêm khớp, thoái hóa khớp.
TS. ĐẶNG QUỐC KHÁNH
Cục Quân y

Có nên dùng thuốc kháng sinh để điều trị bệnh trứng cá?

Có nên dùng thuốc kháng sinh để điều trị bệnh trứng cá?

Thuốc kháng sinh, một trong những biện pháp được coi là hữu hiệu nhất để điều trị bệnh trứng cá nặng, đang trở nên vô hiệu trước vi khuẩn gây bệnh.

Tình trạng vi khuẩn Propionibacterium (P.) kháng thuốc ngày càng tăng khiến các bác sĩ phải suy nghĩ và tiến tới hạn chế sử dụng kháng sinh để điều trị bệnh này.
Hai phương pháp duy nhất để điều trị phần lớn các trường hợp trứng cá nặng (có mụn mủ đau và để lại sẹo) là kháng sinh và vitamin A. Cả hai loại thuốc này đều gây tác dụng phụ. Vitamin A có thể gây dị tật ở thai nhi. Vì vậy, phụ nữ có thai phải rất thận trọng khi dùng thuốc này.
Bác sĩ Carl Nord, Đại học Karolinska (Thụy Điển) và cộng sự đã tiến hành:
- Nghiên cứu mức độ kháng thuốc Erythromycin và Tetracyclin của vi khuẩn P., lấy từ da của 99 bệnh nhân bị trứng cá nặng (nhóm 1). Tất cả những người này đã được điều trị bằng kháng sinh trong vòng 2-6 tháng.
- So sánh số liệu thu được với độ kháng thuốc của 30 bệnh nhân bị bệnh tương tự nhưng chưa bao giờ điều trị bằng kháng sinh (nhóm 2).
- Kết quả là tỷ lệ kháng thuốc của nhóm 1 là 28%, cao hơn nhiều so với nhóm 2 (6%).
Các nghiên cứu ở Anh và Mỹ cũng cho kết quả tương tự. Như vậy, trong tương lai, kháng sinh sẽ trở nên vô hiệu đối với bệnh trứng cá. Theo ông Nord, các bác sĩ da liễu cần theo dõi chặt chẽ tình trạng kháng thuốc khi điều trị cho bệnh nhân. Phải ngừng dùng thuốc ngay nếu thấy có tình trạng kháng thuốc. Nếu không, vô tình chúng ta sẽ làm lan truyền các chủng vi khuẩn kháng thuốc giữa các bệnh nhân và từ bệnh nhân sang những người xung quanh.
Thực trạng này càng thúc đẩy nhu cầu tạo ra vacxin chống bệnh trứng cá. Theo bác sĩ Nord, vacxin trị bệnh trứng cá sắp ra đời sẽ là giải pháp hữu hiệu cho hàng triệu bệnh nhân, chủ yếu là thanh thiếu niên.
Thu Thủy

Ba cách trị gầu đơn giản

Ba cách trị gầu đơn giản

Để thoát khỏi sự khó chịu do gầu gây ra, bạn có thể lấy 150 g giấm ăn lâu năm pha đều với 1 lít nước ấm, mỗi ngày gội đầu 1 lần. Phương pháp này cũng có tác dụng phần nào đối với những người bị rụng tóc và giúp giảm bớt hiện tượng tóc bị chẻ.

Sau đây là 2 cách trị gầu khác rất dễ thực hiện, chỉ cần một ít muối, phèn chua và hành củ:
- Hòa muối và phèn chua vào một lượng nước vừa đủ dùng để gội đầu. Cách này sẽ giúp da đầu bớt ngứa và làm giảm gầu đáng kể.
- Hành củ băm nát, bọc vào vải màn, đập nhẹ lên trên tóc cho đến khi nước hành ngấm đều trên da đầu và tóc. Gội sạch đầu sau vài giờ. Cách này có hiệu quả trị gầu rất cao.
Nông Nghiệp Việt Nam

 

Thực phẩm trắng răng

Thực phẩm trắng răng

Tẩy trắng răng được coi là phương pháp đơn giản để có nụ cười đẹp; bên cạnh đó việc ăn đúng cách cũng có thể giúp cải thiện độ trắng cho răng. 

Rau cải kiểm soát độ a xít. Cà rốt, nấm, cải bó xôi, ớt chuông, hạt hạnh đào, chuối, khoai tây là những loại rau quả có thể giúp giữ eo, và còn là những thực phẩm trung tính tái cân bằng tác dụng a xít hóa của các loại thực phẩm khác, nên không gây chua miệng - tác nhân làm tróc và vàng men răng.
Phô mai bảo vệ. Một lý do tốt để tận hưởng phô mai mềm, vì nó để lại cho răng màng bảo vệ chống các vi khuẩn hình thành vôi răng và chống sâu răng. Hơn nữa phô mai giàu calci và phosphat hỗ trợ củng cố men răng.
Tráng miệng với táo. Táo cứng nên cần nhai kỹ hơn. Càng nhai kỹ thì tuyến nước bọt càng tiết ra nhiều, giúp miệng và răng được bảo vệ khỏi các tấn công a xít và mảng bám chân răng.
Dùng nước lã. Là phản xạ cuối cùng giúp làm sạch răng miệng và loại bỏ cặn bã bám lại trên răng (về lâu dài sẽ hình thành vôi răng). Nước ngọt có ga có khuynh hướng a xít và tấn công men răng.
Nhai sing gum (không đường) sau bữa ăn, khi bạn chưa có cơ hội chải răng ngay, là cách làm sạch các mảnh thức ăn kẹt giữa răng và giúp tiết nước bọt nhiều hơn.
Tóm lại, chúng ta được khuyên nên hạn chế ăn các loại trái cây chua nhiều a xít; chỉ dùng nước ngọt vừa phải; hạn chế các thực phẩm có khuynh hướng nhuộm màu răng.

Trị nấc cụt

Trị nấc cụt

Nấc cụt kéo dài có thể khiến bạn khó chịu. Một số cách đơn giản có thể giúp chặn đứng triệu chứng này.

Ấn mạnh vào lòng bàn tay: Sử dụng ngón tay cái của một tay để ấn vào lòng bàn tay còn lại, ấn càng mạnh càng tốt. Một cách nữa là dùng ngón cái và ngón trỏ của tay phải vặn ngón trỏ của tay trái. Cách này có thể khiến bạn thấy khó chịu song sẽ giúp gây phân tâm, tác động đến hệ thần kinh và có thể giúp ngưng nấc cụt.
Nín thở vài giây: Hít một hơi thật dài, sâu và sau đó nín thở vài giây. Các chuyên gia cho rằng khi khí carbon dioxide chất đầy trong phổi, cơ hoành thư giãn và giúp giảm bớt nấc cụt.
Che kín tai: Che kín đôi tai trong khoảng 20 đến 35 giây. Một lựa chọn khác là nhấn vào vùng mềm phía sau dái tai. Cách này sẽ truyền tín hiệu thư giãn thông qua các dây thần kinh phế vị, vốn kết nối với cơ hoành.
Lè lưỡi: Đây là một thủ thuật thông thường được các ca sĩ và diễn viên dùng tới khi họ biểu diễn vì giúp kích thích các dây thanh âm mở ra. Điều này giúp hít thở thông suốt hơn và ngưng co thắt gây nấc cụt.
Che miệng: Chụm bàn tay che miệng và mũi. Tiếp tục hít thở bình thường trong khi bạn làm điều này. Cách này sẽ ngăn nấc cụt vì hàm lượng carbon dioxide quá nhiều.
Uống nước nhanh: Uống một hơi 10 ngụm nước. Khi bạn nuốt nước, các cơn co thắt nhịp nhàng của thực quản đè lên co thắt của cơ hoành và giúp bạn không còn nấc cụt.
Nhất Linh

 

Mùa tăng tốc

Mùa tăng tốc


Sau tết là thời điểm học sinh bắt đầu đi vào giai đoạn học, ôn thi nước rút. Ngoài phương pháp học, ăn uống đúng cách, nghỉ ngơi hợp lý và tâm lý ổn định sẽ là chìa khóa của thành công cho các bạn trẻ.


Các động tác giãn cơ trong lúc giải lao giúp cung cấp oxy cho não
Song không phải phụ huynh nào cũng có thể theo sát con cái trong các bữa ăn và không phải học sinh nào cũng có chế độ dinh dưỡng, nghỉ ngơi hợp lý.
Sắt, đường: không thể thiếu
Quan trọng nhất là cần có chế độ ăn cung cấp đầy đủ chất sắt. Kết quả nghiên cứu cho thấy cơ thể đủ chất sắt sẽ giúp tăng cường trí nhớ, tăng khả năng tập trung, khả năng học tập và thăng bằng trong cảm xúc. Chất sắt có nhiều trong thịt màu đỏ, đặc biệt là thịt bò, thịt heo. Ngoài ra chất sắt còn có trong các loại nấm như nấm mèo, nấm hương, rau màu xanh đậm như rau muống, rau dền. Do đó phụ huynh nên xây dựng thực đơn có thịt đỏ khoảng ba lần trong tuần.
Các bạn trẻ cần ăn đầy đủ ba bữa: sáng, trưa, chiều đầy đủ, đa dạng và thêm bữa phụ để cung cấp năng lượng cho não - là glucose (đường đơn được cắt từ tất cả các loại tinh bột và đường). Tuy nhiên chúng ta nên sử dụng thực phẩm cung cấp glucose từ tinh bột (đường phức) hơn là đường đơn trong các loại thức ăn thức uống có đường, vì khi sử dụng thức ăn thức uống có đường (kẹo, nước ngọt...) nhiều sẽ làm lượng glucose trong máu tăng nhanh nhưng cũng kích thích cơ thể tăng tiết insulin làm nồng độ glucose giảm nhanh, không duy trì được nồng độ glucose cần thiết lâu bền cho não hoạt động học tập. Bên cạnh đó, các loại tinh bột cũng có trong cơm, khoai, bánh mì, bánh bông lan, bánh tây, trái cây...
Đừng ăn bữa chính ngay tại bàn học. Tuy các bạn trẻ có thể thiếu thời gian song đừng nên đối xử quá tệ với cơ thể. Thỉnh thoảng các em cần để cho thể chất và tinh thần nghỉ ngơi. Do đó phụ huynh khuyến khích con trẻ nghỉ ngơi và ăn cơm chung bữa với gia đình, đó là thời gian giúp các em thư giãn và tăng cường tình cảm gắn kết với gia đình, những người sẽ hỗ trợ về mặt tinh thần cho các em trong mùa ôn thi.
Trong giai đoạn này, các bạn trẻ không nên ăn kiêng vì bất cứ lý do nào. Nếu có vấn đề về tiêu hóa, chẳng hạn như các bệnh viêm loét dạ dày tá tràng, viêm đại tràng, bệnh về răng miệng sâu răng... thì nên đi điều trị sớm. Nếu có ăn chay, các em nên được bổ sung chất sắt và vitamin thường xuyên. Ngoài ra các em cũng cần tẩy giun định kỳ để tránh thiếu máu do nhiễm giun sán.
Ngủ đủ, cười nhiều
Các em nên ngủ tối thiểu 6 giờ mỗi ngày và tốt hơn là từ 7-8 giờ. Tuy nhiên sinh hoạt điều độ quan trọng hơn. Tức là các em cần xây dựng lịch học tập, đi ngủ và thức dậy vào các giờ nhất định mỗi ngày. Điều này giúp cơ thể tránh mất ngủ buổi tối và mệt mỏi vào sáng sớm thức dậy. Tùy theo cơ địa, có bạn trẻ cảm thấy sáng suốt và học mau vô khi thức khuya, ngược lại có bạn cảm thấy học tốt nhất khi thức dậy sớm học. Phụ huynh cần tôn trọng thói quen này của con cái.
Để xua tan mệt mỏi và căng thẳng, các bạn nên tận dụng nụ cười bằng cách kể chuyện tiếu lâm, hoặc xem phim, kịch hài để thư giãn. Ngoài ra các bạn có thể tập các động tác giãn cơ, nghỉ ngơi sau mỗi giờ học tập, đi lại và hít thở không khí trong lành để đưa oxy lên não tốt hơn. Dù bận rộn, các bạn trẻ cần duy trì thói quen tập thể dục 30 phút mỗi ngày. Có thể đi bộ hay đạp xe, chạy bộ.
Chúc các bạn có sức khỏe và tinh thần thư giãn nhất để chuẩn bị bước vào các cánh cổng quan trọng của cuộc đời.
ThS.BS TRẦN QUỐC CƯỜNG
(Trung tâm Dinh dưỡng TP.HCM)

Sống thọ hơn nhờ bi quan?

Sống thọ hơn nhờ bi quan?

Những người cao tuổi hay bi quan lại có khuynh hướng sống thọ hơn người sống lạc quan, theo một nghiên cứu dựa trên khảo sát 40.000 người, mới công bố ngày 28.2.

Các nhà khoa học Đức và Thụy Sĩ phân tích số liệu thu thập trong giai đoạn 1993-2003 để đánh giá mức độ hài lòng trong cuộc sống của gần 40.000 người ở độ tuổi 19-69, được chia làm ba nhóm tuổi: trẻ, trung niên, cao tuổi, theo tin tức từ AFP.

Người bi quan sống thọ hơn người lạc quan? - Ảnh: AFP
Trong giai đoạn 10 năm này, những người tham gia trả lời câu hỏi khảo sát 6 lần.
Kết quả cho thấy, 43% nhóm người cao tuổi (66-69 tuổi) hay bi quan, không hài lòng với cuộc sống hiện tại cũng như không quá lạc quan về tương lai có khuynh hướng sống thọ hơn những người cùng nhóm tuổi luôn suy nghĩ lạc quan. Trong khi kết quả nhóm người trẻ và trung niên không rõ ràng.
Các nhà khoa học cho rằng những người cao tuổi lạc quan có thể nhìn cuộc đời quá tươi đẹp nên quên đi tuổi tác ngày càng cao và sức khỏe yếu đi của họ. Trong khi người bi quan chính vì có suy nghĩ không mấy tích cực về sức khỏe và tuổi tác của mình nên có khuynh hướng chăm sóc bản thân tốt hơn, có ý thức cao về giữ gìn sức khỏe.
Kết luận nghiên cứu này hoàn toàn trái ngược với các nghiên cứu trước đây cho rằng suy tích cực, lạc quan sẽ giúp tăng cường tuổi thọ.
Một nhóm nhà khoa học thuộc Đại học Erlangen-Nuernberg, Đại học Humboldt (Đức) và Đại học Zurich (Thụy Sĩ) đã phối hợp thực hiện nghiên cứu này.
Phúc Duy

 

Đẩy lùi viêm khớp bằng những mẹo đơn giản

Đẩy lùi viêm khớp bằng những mẹo đơn giản

Viêm khớp gây đau và viêm sưng ở các khớp, thường ảnh hưởng đến mọi lứa tuổi, kể cả trẻ em. Thực hiện theo những hướng dẫn đơn giản sau có thể giúp giảm đau, lo lắng do căn bệnh này gây ra, theo báo The Times of India dẫn nguồn từ các chuyên gia sức khỏe Ấn Độ. Cụ thể:

- Tránh hút thuốc vì hút thuốc lá có thể dẫn đến viêm khớp.
- Nhiều người bổ sung a xít béo omega-3 ít bị viêm khớp và sưng khớp. Cá tươi như cá hồi, cá mòi, cá thu... là những nguồn phong phú a xít béo omega 3. Nếu bạn ăn chay, hãy chọn thực phẩm thay thế như hạt lanh, quả óc chó và bổ sung dầu cá.
Đẩy lùi viêm khớp bằng những mẹo đơn giản
Nguồn a xít béo omega-3 có trong cá thu giúp giảm viêm khớp - Ảnh: H.T
- Một chế độ ăn uống giàu vitamin C là rất quan trọng cho những người bị viêm khớp. Ăn dâu tây, cam, kiwi, dứa (thơm), bông cải xanh, súp lơ, đậu và cải bắp giúp bổ sung vitamin C cho cơ thể hằng ngày.
- Ăn nhiều trái cây và rau củ có thể giúp chống viêm khớp.
-  Ăn uống với hàm lượng chất béo thấp dựa trên các loại ngũ cốc, trái cây và rau quả. Nghiên cứu cho thấy những người theo chế độ ăn này hiếm khi phát bệnh viêm khớp.
- Các sản phẩm động vật, đặc biệt là sữa, có thể làm nặng thêm các triệu chứng viêm khớp.
 Đẩy lùi viêm khớp bằng những mẹo đơn giản
Tập thể dục cũng giúp giảm viêm khớp - Ảnh: Shutterstock
- Gừng có chứa hóa chất tương tự như những chất được tìm thấy trong các thuốc chống viêm. Nghệ là một gia vị khác giúp ngăn ngừa viêm khớp.
- Đừng bỏ qua tập thể dục.
Huỳnh Thiềm

 

Để giảm a xít uric trong cơ thể

Để giảm a xít uric trong cơ thể

Lượng a xít uric tăng trong cơ thể một khi cơ thể sản xuất quá nhiều hoặc không thể thải nó một cách hiệu quả. Để tránh các biến chứng do hàm lượng cao a xít uric gây ra như bị gút, bệnh tim mạch..., bạn cần kiểm tra chế độ ăn uống hằng ngày, theo trang healthmeup.com dẫn nguồn từ các chuyên gia sức khỏe.

* Kiểm tra chế độ ăn uống
- Tránh ăn các thực phẩm giàu purine (chất kích thích sản sinh a xít uric trong cơ thể)

- Thực phẩm giàu purine: Thịt đỏ, chất chiết xuất từ thịt, nội tạng, măng tây, đậu Hà Lan, nấm và súp lơ.

- Nêm ít muối hơn khi nấu ăn.
Giảm a xít uric trong cơ thể
 Chế độ dinh dưỡng hợp lý... - Ảnh: Shutterstock
* Nói không với đường fructoseđường fructose mỗi tuần làm tăng nguy cơ mắc bệnh gút.
* Hạn chế uống rượu
- Chất cồn khử nước trong cơ thể vì vậy tốt nhất là tránh xa nó. Mặc dù rượu vang không ảnh hưởng đến nồng độ a xít uric, lượng men trong rượu làm tăng nguy cơ mắc bệnh.

- Hạn chế nạp chất cồn nếu bạn đang uống bia.
* Giảm viêm
- Theo Livestrong.com, các chuyên gia thuộc Đại học Maryland (Mỹ) khuyên nên bổ sung các loại quả một như dâu tây, quả mâm xôi… vào chế độ ăn uống của bạn. Ngoài ra, bromelain, chất có trong quả dứa (thơm), là một loại enzyme tiêu hóa với các đặc tính kháng viêm, ức chế protein gây viêm.
- Cần tây, một loại thuốc lợi tiểu tự nhiên, có tác dụng giảm viêm.
* Cân nặng
- Tăng cân hoặc béo phì liên quan trực tiếp đến hàm lượng a xít uric cao. Thực hiện theo một chương trình giảm cân dần dần giúp ngừa hàm lượng cao a xít uric.
Giảm a xít uric trong cơ thể
 ... uống nhiều nước giúp giảm bớt nồng độ a xít uric - Ảnh: Shutterstock
* Nước
- Uống nước và giữ cơ thể không bị thiếu nước là điều rất quan trọng. Nước làm loãng nồng độ a xít uric trong máu và hoạt động như một chất xúc tác để tống các chất thải ra khỏi thận.
Huỳnh Thiềm

 

 

Bài thuốc chữa tinh dịch dị thường

Bài thuốc chữa tinh dịch dị thường

Mắc chứng tinh dịch dị thường, nam giới thường muộn hoặc không có con. Xin giới thiệu với bạn đọc những món ăn - bài thuốc chữa bệnh này.

Nam giới mắc chứng tinh dịch dị thường có số lượng tinh trùng suy giảm, chất lượng tinh trùng không bảo đảm như tỉ lệ hoạt động thấp, sức vận động suy giảm, số dị dạng vượt quá mức cho phép, thời gian tinh dịch hóa lỏng không bình thường, thậm chí không có hoặc hầu hết tinh trùng bị chết yểu.
Trong y học cổ truyền, căn bệnh này được gọi là chứng nam tử tinh thiểu, nam tử tinh hàn hoặc tinh thanh bất dục. Nguyên nhân của chứng bệnh này rất phức tạp nhưng phần nhiều là do tạng thận hư tổn. Y thư cổ Nội kinh cho rằng thận tinh, thận khí và tinh dịch có mối quan hệ hết sức mật thiết. Bởi vậy, các chứng tinh hàn, tinh thiểu, tinh loãng (tinh thanh) đa phần là do thận tinh và thận khí suy giảm gây nên.
Khi mắc chứng này, ngoài việc dùng thuốc, tập luyện, châm cứu xoa bóp..., các thầy thuốc còn khuyên người bệnh nên sử dụng những đồ ăn, thức uống mang tính ôn ấm, có tác dụng bổ thận sinh tinh.
Bài thuốc chữa tinh dịch dị thường 1
Câu kỷ tử có tác dụng ích tinh - Ảnh: Tư liệu
- Nước cơm: Còn gọi là mễ du, mễ thang... Đây là thứ nước sánh đặc nổi lên trên mặt nồi cơm hoặc nồi cháo, có tác dụng tư âm, trường lực, bổ ngũ tạng, sinh tinh. Nam giới mắc chứng tinh loãng nên uống nước cơm thường xuyên, cho thêm một chút muối.
- Trứng chim sẻ hoặc chim cút:  Đông y cho rằng ăn 2 loại trứng này có tác dụng bổ thận dương, ích tinh huyết, điều hòa 2 mạch xung và nhâm, là thức ăn rất tốt cho vợ chồng bị muộn con. Sách Bản thảo kinh sơ cho rằng trứng chim sẻ tính ấm, có công năng ôn, bổ dương khí ở mệnh môn làm thận âm theo đó mạnh lên, tinh đầy nên dễ có con.
 

Các thực phẩm khác giúp bổ thận sinh tinh gồm: hạt dẻ, ngân nhĩ, tổ yến, sữa ong chúa, cao da lừa, tinh hoàn - dương vật chó, đông trùng hạ thảo, tắc kè, nhung hươu…

- Thịt chim sẻ: Còn gọi là ma tước nhục, vị ngọt, tính ấm, có công dụng tráng dương khí, ích tinh huyết, làm ấm tạng thận. Y thư cổ cho rằng thịt chim sẻ có tác dụng bồi bổ khí của ngũ tạng, làm ấm âm đạo và bổ ích tinh tủy.
- Thận dê: Còn gọi là dương thận, vị ngọt, tính ấm, có công dụng bổ thận khí, ích tinh tủy, rất có lợi cho nam giới bị tinh dịch lạnh và loãng. Sách Thực y tâm kính khuyên để chữa chứng thận hư tinh kiệt, dùng thận dê một đôi, lọc bỏ màng mỡ, thái nhỏ, nấu với nước đậu xị làm canh ăn hoặc nấu cháo ăn.
- Thịt chó: Tính ấm, vị mặn, có công dụng bổ trung ích khí, ôn thận trợ dương, bổ phế khí, cố thận khí, thực hạ tiêu, làm tăng tinh tủy, ấm tì vị, ích khí lực, mạnh lưng gối. Sách Bản kinh phùng nguyên cho rằng những người phần dưới hư suy ăn thịt chó cực tốt.
- Bào thai hươu: Tính ấm, vị ngọt mặn, có công dụng ích thận tráng dương, bổ hư sinh tinh. Theo sách Bản thảo tân biên, bào thai hươu có tác dụng kiện tì, sinh tinh, hưng dương bổ hỏa.
 Bài thuốc chữa tinh dịch dị thường 2
Hải sâm có tác dụng ích tinh - Ảnh: Tư liệu
- Hải sâm: Tính ấm, vị mặn, có công dụng bổ thận ích tinh, nam giới mắc chứng tinh thiểu, tinh lãnh, tinh loãng ăn đều tốt. Sách Bản thảo tùng tân cho biết hải sâm có công năng bổ thận ích tinh, làm mạnh dương khí, trị được chứng liệt dương. Sách Thực vật nghi kỵ cũng cho rằng hải sâm bổ thận kinh, ích tinh tủy.
- Mỡ chim bìm bịp: Có công dụng bổ thận ích tinh, nhuận phế dưỡng âm, được dân gian coi là loại thực phẩm cường tráng tư bổ. Y thư cổ cho rằng mỡ chim bìm bịp có tác dụng làm vững thận âm, sinh tinh tăng tủy, nhuận phế tạng, là thuốc quý cho những người tì thận hư nhược, khí không hóa thành tinh dịch được.
- Nhau thai: Đông y gọi là tử hà xa, thai bàn…, có công dụng bổ khí dưỡng huyết, bổ thận ích tinh. Sách Hội chước y kính viết: Với những chứng lưng đau gối mỏi, thân thể hao gầy, tinh dịch khô kiệt, tử hà xa đều có tác dụng bổ ích.
- Kỷ tử: Tính bình, vị ngọt, có công dụng tăng tinh ích tủy, bổ tinh tráng dương, ích thận minh mục. Đào Hoằng Cảnh, y gia trứ danh, đã viết: “Câu kỷ tử bổ ích tinh khí”. Sách Bản thảo kinh sơ cho rằng kỷ tử có khả năng sinh tinh ích khí, phần âm đã đủ thì tinh huyết cũng dồi dào.
- Củ mài: Còn gọi là hoài sơn hay sơn dược, vị ngọt, tính bình, có công dụng kiện tì bổ phế, cố thận ích tinh. Sách Bản thảo chính cho rằng hoài sơn có khả năng kiện tì bổ hư, ích tinh, làm vững thận, trị được các chứng hư tổn. Các thầy thuốc khuyên nên ăn hoài sơn càng nhiều, càng lâu thì càng tốt. 
Theo Bác sĩ Hoàng Khánh Toàn / Người Lao Động

 

Đừng chủ quan với bệnh viêm xoang

Đừng chủ quan với bệnh viêm xoang

Khi sổ mũi, nhức đầu…nhiều người chủ quan, xem thường mà không biết rằng đây là một trong những biểu hiện khởi đầu của bệnh viêm xoang. Bệnh tiến triển nặng có thể gây ra nhiều biến chứng : mù mắt, viêm màng não, thậm chí tử vong…

Nguy cơ từ nhiều phía
Theo bác sĩ (BS) Võ Quang Phúc, Phó Giám đốc Bệnh viện Tai-Mũi-Họng TP.HCM, viêm mũi xoang thường do điều kiện thời tiết lạnh và ẩm, cơ địa yếu hoặc có thể do dị ứng với một tác nhân nào đó trong môi trường như bụi khói, phấn hoa, lông gà vịt… Bệnh cũng có thể do bị vẹo vách ngăn làm bít tắc lỗ thông xoang hoặc do viêm mũi kéo dài không được điều trị sớm. Ở trẻ em, viêm xoang thường do viêm đường hô hấp trên tái đi tái lại, viêm VA hoặc amiđan.
Ngoài ra, còn có các nguyên nhân khác như:
- Viêm xoang do răng (thường gặp ở người lớn do sâu răng hàm trên). Người bệnh cảm thấy đau nhức vùng má, nhức đầu, sổ mũi xanh và hôi. Bệnh này khi điều trị cần phải có sự kết hợp giữa chuyên khoa tai mũi họng và răng hàm mặt, đôi khi chỉ cần “bứng” ổ nhiễm khuẩn từ răng sâu là cải thiện đáng kể tình trạng viêm xoang vùng này.
- Viêm xoang do nấm: thường gặp ở người lớn với triệu chứng chung là nghẹt mũi, sổ mũi, nhức đầu từ nhẹ đến dữ dội. Bệnh nhân không chảy mũi mà bị những cơn nhức đầu khủng khiếp hành hạ, choáng váng, không đi lại nổi, mờ mắt, buồn nôn… dễ lầm tưởng đến những bệnh viêm nhiễm vùng não. Biện pháp hữu hiệu nhất hiện nay là phẫu thuật nội soi.
- Viêm xoang do dị ứng: đây là loại viêm xoang rất khó điều trị dứt điểm, dễ tái phát, dễ trở thành bệnh mạn tính. Bệnh xảy ra do tiếp xúc với phấn hoa, bụi, hóa chất, thay đổi khí hậu. Bệnh này thường không cần dùng kháng sinh, chỉ cần dùng thuốc kháng dị ứng bằng đường uống hoặc xịt mũi.
- Viêm mũi xoang xuất tiết: thường gặp lúc giao mùa, do thời tiết, lúc đó sức đề kháng cơ thể không thích nghi kịp, thường gặp ở trẻ em. Loại viêm xoang này thường nhẹ, chỉ cần dùng những liều thuốc cảm thông thường thì sẽ hết.
Dấu hiệu để phân biệt các loại xoang
Có thể chia làm hai loại xoang: xoang trước (gồm xoang trán, xoang mũi, xoang hàm, xoang sàng trước) và xoang sau (gồm xoang sàng sau, xoang bướm). Khi niêm mạc xoang bị viêm ở vùng nào đó, chẳng hạn ở vùng mũi thì gọi là viêm xoang mũi (hay mũi xoang), nếu nhiều loại xoang bị viêm cùng lúc thì gọi là viêm đa xoang.
Khi bị nhức đầu, nếu là viêm vùng xoang trước, người bệnh sẽ cảm thấy nhức vùng má (xoang hàm), vùng trán, nhất là chỗ giao nhau giữa hai chân mày (xoang trán), nhức giữa hai mắt (xoang sàng trước); còn nếu viêm xoang sau thì bệnh nhân thường bị nhức sâu bên trong và vùng sau ót. Triệu chứng nhức vùng sau ót rất đau đớn, có khi dễ chẩn đoán nhầm với thoái hóa đốt sống cổ. Nếu viêm các xoang trước, bệnh nhân thường chảy dịch mũi ra phía ngoài, mũi thường xuyên khụt khịt, nghẹt mũi; còn viêm vùng xoang sau thì nước dịch chảy ngược vào họng, tạo cảm giác luôn muốn khạc nhổ và dễ gây các bệnh viêm nhiễm đường hô hấp.
Những biến chứng
Viêm xoang nếu không được điều trị dù là nguyên nhân nào cũng dễ đưa đến nhiều biến chứng như polyp ở mũi (như những bong bóng cá), làm bệnh nhân khó thở do niêm mạc mũi bị thoái hóa. Nặng hơn có thể biến chứng vào ổ mắt: làm sưng tấy vùng mắt, vùng mi mắt, giảm thị lực, có thể dẫn tới mù mắt. Một số trường hợp dẫn tới viêm màng não, thậm chí là tử vong nếu không được điều trị kịp thời.
Điều trị và phòng ngừa
Hiện nay, tất cả các trường hợp viêm xoang nặng có thể được phẫu thuật qua nội soi chứ không phải mổ hở như trước đây. Phương pháp nội soi giúp lấy hết các bệnh tích, các mô viêm nhiễm mà không làm sưng tấy mặt như trường hợp mổ đồng thời giảm thiểu chảy máu, rút ngắn thời gian điều trị. Thông thường, một ca phẫu thuật viêm xoang hiện nay thời gian nằm viện từ ba-năm ngày. Cần lưu ý là viêm xoang rất dễ bị tái phát nên bệnh nhân cần phải tái khám định kỳ và tuân thủ theo lời khuyên của BS.
Phòng ngừa đơn giản nhất là mang khẩu trang khi tiếp xúc với khói bụi, vệ sinh mũi hàng ngày bằng cách nhỏ, xịt nước muối sinh lý. Nếu sổ mũi khoảng ba-bốn ngày trở lên, nước mũi có màu xanh thì nên khám BS chuyên khoa tai mũi họng ngay. Khi đi bơi lội nên chọn những hồ bơi, bãi biển sạch, tránh sự viêm nhiễm từ môi trường. Đặc biệt là nên giữ ấm cơ thể khi thời tiết giao mùa.
Riêng đối với trẻ em, BS Võ Quang Phúc cho biết: khi có dấu hiệu viêm nhiễm đường hô hấp cần đi khám ngay để định bệnh vì viêm xoang ở trẻ em thường do viêm VA, amiđan và tùy trường hợp, chỉ cần nạo VA, cắt amiđan là khỏi bệnh. Trẻ em sẽ không cần mổ vì sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của khối xương mặt khi trưởng thành.
 

Hạt dướng dương tại VN chứa nhôm tổng hợp

Hạt dướng dương tại VN chứa nhôm tổng hợp

Kết quả kiểm nghiệm 10 mẫu hạt hướng dương trên thị trường Việt Nam phát hiện nhôm tổng hợp, không phát hiện hóa chất phèn nhôm và bột talc.

Trước đó mấy ngày, Cục An toàn và vệ sinh thực phẩm, Bộ Y tế đã yêu cầu Viện Kiểm nghiệm An toàn vệ sinh thực phẩm quốc gia tiến hành lấy mẫu và kiểm tra hạt hướng dương trên thị trường (đặc biệt đối với loại hạt đã chế biến nhập từ Trung Quốc).

 
Kết quả kiểm nghiệm 10 mẫu hạt hướng dương trên thị trường Việt Nam phát hiện nhôm tổng hợp nhưng hàm lượng thấp hơn so với tiêu chuẩn cho phép. Trong các mẫu này  không phát hiện hóa chất phèn nhôm và bột talc.
Sắp tới, viện kiểm nghiệm sẽ tiếp tục lấy mẫu, kiểm tra trên diện rộng và lưu ý lấy mẫu tại địa bàn giáp biên giới để kiểm nghiệm chất độc nói trên.
Trước đó, một số trang báo điện tử của Trung Quốc như: Tân Hoa xã, Trung tâm Tin tức, Sina và một số báo địa phương của Trung Quốc đưa tin cơ quan chức năng Thành phố Tô Châu, Triết Giang, Trung Quốc vừa lấy mẫu, kiểm tra hạt hướng dương trên thị trường và phát hiện 7 loại có chứa chất phèn nhôm và bột talc (bột talc là hóa chất dùng trong công nghiệp để chống dính khuôn).
Hai chất này hiện không có trong danh mục tiêu chuẩn quốc gia phải kiểm tra đối với các loại hạt của Trung Quốc. Phèn nhôm có thể giữ cho hạt hướng dương giòn và giữ được vị thơm ngon lâu hơn. Phèn nhôm khi vào cơ thể rất khó bị đào thải ra ngoài, gây tổn hại cho não, tế bào thần kinh khiến trí nhớ suy giảm… Bột talc làm cho hạt hướng dương nhẵn bóng, bắt mắt. Loại bột này có chứa chất gây ung thư.
Cũng theo Cục An toàn thực phẩm, Phèn nhôm gồm hai loại phèn đơn (nhôm sunfat) và phèn kép (nhôm kali, nhôm amon sunfat) hoặc dung dịch phèn nước (thông thường là dung dịch phèn nhôm sắt), được sử dụng để lắng trong nước sinh hoạt.
Tuy nhiên, trong sản xuất và chế biến thực phẩm thì Bộ Y tế đã cho phép sử dụng 2 loại là Kali nhôm sunfat và Amoni nhôm sunfat trong danh mục phụ gia thực phẩm được phép sử dụng trong thực phẩm ban hành kèm theo Thông tư số 27/2012/TT-BYT về “Hướng dẫn việc quản lý phụ gia thực phẩm”.
Nhưng điều đáng ngại là, người sản xuất hướng dương có thể không dùng phụ gia tinh khiết mà dùng hợp chất tổng hợp có chứa kim loại nặng.

 

Có nên uống thuốc nội tiết tố cho nở ngực, đẹp da?

Có nên uống thuốc nội tiết tố cho nở ngực, đẹp da?

Trên thị trường dược chính thức và phi chính thức (bán qua internet, hàng xách tay…) hiện có nhiều sản phẩm thuốc nội tiết sinh dục nữ dạng kem bôi, tiêm, uống… được quảng cáo có tác dụng nở ngực, đẹp da với những lời mời chào rất hấp dẫn: “hiệu quả sau bảy ngày với chỉ bốn viên”, “thoa bảy ngày thẩm thấu vào cơ ngực, kích thích mô mỡ ngực phát triển”… Thực chất việc dùng thuốc nội tiết sinh dục nữ với mục đích làm đẹp lợi hại ra sao?
Nội tiết sinh dục: hoạ hoằn mới đụng tới

Nội tiết sinh dục nữ bao gồm các nội tiết tố của trục hạ đồi – tuyến yên, tuyến sinh dục và tuyến thượng thận. Các nội tiết tố GnRH, LH, FSH và các nội tiết tố steroid sinh dục có tính quyết định trong chức năng sinh sản. Các steroid nữ do buồng trứng và bánh nhau thai kỳ sản xuất là chủ yếu, dưới tác động của vùng hạ đồi tuyến yên, gồm estrogen, progesterone và androgen.
Việc điều trị với nội tiết tố sinh dục có chỉ định trong các bệnh lý phụ khoa: rối loạn nội tiết tuổi dậy thì; cường thượng thận bẩm sinh; rối loạn kinh nguyệt, không rụng trứng; nội tiết thay thế sau mãn kinh; vô kinh, vô sinh; rậm lông, buồng trứng đa nang; tránh thai.
Thuốc nội tiết sinh dục phải do bác sĩ chỉ định, chị em không nên tự ý dùng vì có những chống chỉ định đối với thuốc nội tiết sinh dục khi: đang có thai, đang cho con bú (nếu muốn ngừa thai có loại riêng dành cho phụ nữ cho con bú), viêm gan, vàng da, tiền sử u gan, tiền sử bản thân hoặc gia đình bị ung thư vú, tiền sử hoặc hiện tại bị viêm tắc tĩnh mạch, rối loạn chuyển hoá lipid, tiểu đường nặng, cao huyết áp, bệnh tim, bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm, ung thư nội mạc tử cung, rong huyết chưa rõ nguyên nhân.
Các tác dụng phụ có thể xảy ra do dùng thuốc bao gồm: buồn nôn, nôn, tăng cân, rong huyết, nhức đầu, đau ngực, căng tức vú, vàng da, đau rút ở chân… Khi dùng nội tiết sinh dục, nếu có bất thường nào xảy ra phải đến bác sĩ ngay. Việc dùng nội tiết sinh dục đòi hỏi sự thận trọng vì ảnh hưởng của nội tiết tố không chỉ trên cơ quan sinh dục mà còn ảnh hưởng đến toàn thân (đông máu, biến dưỡng chất béo, gây ung thư).
Ngực chưa to nguy cơ đã lớn
Estrogen và progesterone tác dụng lên tuyến vú làm hệ thống ống dẫn sữa tăng trưởng, chế tiết, nang tuyến sữa phát triển, nhờ vậy cảm giác vú căng lên. Estrogen còn giúp tích tụ mô mỡ dưới da ở vú làm vú to lên. Ở những phụ nữ khác nhau, số lượng thụ thể đáp ứng nội tiết khác nhau trên mô vú nên việc tích tụ mỡ cũng khác nhau, do đó kích thước tuyến vú khác nhau.
Vì vậy, việc dùng nội tiết để làm ngực to lên là không nên, bởi các lý do: đáp ứng với nội tiết sinh dục trong sự tích tụ mô mỡ ở vú tuỳ thuộc vào số thụ thể. Nếu số thụ thể không nhiều thì việc dùng nội tiết không hiệu quả. Bên cạnh đó, tác dụng phụ của nội tiết và những chống chỉ định của thuốc này là đáng kể. Thuốc nội tiết sinh dục cũng có thời gian tác dụng và bán huỷ, sau thời gian bán huỷ thì thuốc giảm tác dụng. Do vậy, quảng cáo dùng bốn viên để làm ngực to lên là khó tin. Còn nếu thuốc liều rất cao, thời gian bán huỷ kéo dài và nồng độ cao quá trong máu thì nguy cơ và tác dụng phụ càng cao.
Da: trước đẹp sau nám
Một số loại thuốc tránh thai có thành phần cyproterone acetate hay drospirenone có tác dụng ức chế ảnh hưởng của androgen, nhờ vậy giảm tình trạng mụn trứng cá do tăng tiết bã nhờn, giảm tình trạng rậm lông – đặc biệt là lông mặt. Nhưng dùng đơn thuần cyproterone acetate sẽ dẫn đến rối loạn chu kỳ kinh nguyệt. Điều này có thể tránh được bằng cách kết hợp với ethinylestradiol trong thuốc. Hiệu quả này vẫn giữ được miễn là việc dùng thuốc phải theo chu kỳ theo hướng dẫn sử dụng thuốc. Trong thời gian điều trị bằng thuốc, sự rụng trứng sẽ không xảy ra, vì vậy có thể ngừa thai. Do đó, việc dùng đồng thời với một nội tiết tố hoặc những thuốc ngừa thai khác là không cần thiết. Có những trường hợp dùng thuốc nội tiết với mục đích làm đẹp da, nhưng sau một thời gian sử dụng da trở nên nám vì tác dụng phụ của thuốc là gây ra nhạy cảm với ánh nắng nên có thể bị sạm da.
Muốn có làn da đẹp, điều quan trọng là giữ gìn sức khoẻ tốt, ăn uống đầy đủ, hợp vệ sinh, cung cấp đầy đủ các loại vitamin, đặc biệt là vitamin C, A, E, B và các chất khoáng cho cơ thể. Nên uống nhiều nước, ngủ đủ giấc, giữ tinh thần thoải mái, da sạch sẽ, bảo vệ da khi ra nắng.

Lần đầu tiên, em bé có HIV được chữa khỏi

Lần đầu tiên, em bé có HIV được chữa khỏi

Theo tuyên bố mới nhất của các bác sĩ (BS) vào ngày Chủ Nhật qua, em bé sơ sinh đầu tiên trên thế giới đã được chữa khỏi HIV. Đây là bước phát triển mới, có thể làm thay đổi cách thức điều trị trẻ sơ sinh bị nhiễm HIV và giảm đáng kể số lượng trẻ nhỏ phải sống chung với vi-rút gây nên căn bệnh AIDS trên toàn thế giới.

Em bé, sinh ra ở vùng quê Mississippi (Mỹ), được thử nghiệm chữa trị bằng thuốc kháng vi-rút ngay trong 30 giờ đầu tiên sau khi ra đời, theo cách không thông dụng. Nếu những thử nghiệm tiếp theo có tác dụng với những trẻ em khác, chắc chắn phương thức điều trị này sẽ được khuyến nghị trong việc điều trị cho trẻ sơ sinh nhiễm HIV trên toàn thế giới.

Liên Hợp Quốc cho biết năm 2011 có khoảng 330.000 trẻ sơ sinh mới nhiễm HIV và hơn 3 triệu trẻ em phải sống chung với vi-rút này trên toàn cầu.

Một khi kết quả này được xác nhận chính thức, em bé ở Mississippi sẽ là ca chữa trị HIV thành công thứ hai trên thế giới được ghi chép vào y văn. Đây là một thành tựu đáng khích lệ đối với giới y khoa toàn cầu vì chỉ vài năm trước đây, người ta thậm chí còn không tin là căn bệnh có thể chữa trị được và các chuyên gia cũng cảnh báo có thể phương thức điều trị ở trẻ nhỏ chưa chắc áp dụng được cho người lớn.

Được biết, người đầu tiên được chữa khỏi HIV là Timothy Brown, một bệnh nhân trung niên người Đức mắc bệnh bạch cầu, được điều trị theo cách ghép tủy có chứa gen kháng HIV.

BS. Deborah Persaud, hiện đang công tác tại Trung tâm Nhi khoa Johns Hopkins đồng thời là tác giả chính của bản báo cáo y khoa về trường hợp này cho biết: "Đối với lĩnh vực Nhi khoa, thành tựu này không khác gì ca Timothy Brown. Nếu tái thử nghiệm thành công với phương thức điều trị dựa trên nguyên lý này, chúng ta có thể chữa khỏi HIV".

Kết quả này được BS. Persaud và các cộng sự tiết lộ trước khi chính thức công bố tại Hội thảo về Thuốc kháng vi-rút và các bệnh nhiễm trùng cơ hội tại Atlanta ngày thứ Hai tuần này. Đến nay, kết quả này chưa hề được công bố trên bất cứ tạp chí y khoa nào.

Tuy nhiên, cũng có nhiều chuyên gia khác cho rằng họ cần thêm bằng chứng cho thấy đứa trẻ thực sự bị nhiễm HIV. Bởi nếu không chứng minh được đứa trẻ đã bị nhiễm HIV trước khi được điều trị thì đây chỉ là một trường hợp phòng ngừa, vốn đã được áp dụng từ bấy lâu nay cho những đứa trẻ do các bà mẹ có nhiễm HIV sinh ra.
BS. Daniel R. Kuritzkes, trưởng khoa nghiên cứu các bệnh nhiễm trùng cơ hội của bệnh viện Brigham & Women ở Boston nhận định: "Điều không chắc chắn nhất chính là bằng chứng cho thấy đứa trẻ thực sự nhiễm bệnh".

Về phần mình, BS. Persaud  và các nhà khoa học khác cho biết họ chắc chắn đứa bé (danh tính và giới tính được giữ bí mật) đã bị lây nhiễm. Người ta đã tiến hành 5 lần xét nghiệm trong tháng đầu đời của đứa trẻ, đều cho kết quả dương tính; trong đó có bốn lần thử RNA và một lần thử DNA. Và khi các BS bắt đầu điều trị, họ ghi nhận tải lượng vi-rút trong máu em bé giảm đi so với mẫu máu của các bệnh nhân có lây nhiễm khác.
Đứa trẻ hiện đã được 2 tuổi rưỡi và đã được ngưng điều trị từ một năm nay, gần như không còn vi-rút trong cơ thể.

Trước đó, vào mùa thu 2010, mẹ của bé được đưa đến bệnh viện trong tình trạng đang chuyển dạ và sinh non. Người mẹ không hề đi khám thai trong suốt thai kỳ và vì vậy không biết rằng mình đã nhiễm HIV. Sau khi có kết quả xét nghiệm cho biết người mẹ có khả năng đã nhiễm bệnh, các BS quyết định đưa đứa trẻ sang Trung tâm Y khoa ĐH Mississippi, ngay sau khi cháu bé chào đời được 30 giờ đồng hồ.
Lúc đó, BS. Nhi khoa Hannah B. Gay cho lấy máu xét nghiệm để kiểm tra xem có sự hiện diện của vi-rút HIV trong máu bé hay không.
Kết quả cho thấy tải lượng vi-rút có trong máu khá thấp đối với một em bé sơ sinh. Nhưng do các xét nghiệm sớm này cho kết quả dương tính, các BS cho rằng bé đã bị lây nhiễm từ khi còn trong bụng mẹ chứ không phải trong quá trình sinh nở.

Thông thường, những đứa trẻ do bà mẹ nhiễm HIV sinh ra được chỉ định cho dùng một đến hai loại thuốc dự phòng. Nhưng dựa trên kinh nghiệm của mình, BS Gay chỉ định áp dụng ngay chế độ điều trị với ba loại thuốc chứ không phải dự phòng, và cũng không chờ các kết quả xét nghiệm khác để xác định tình trạng nhiễm bệnh nữa.

Kết quả xét nghiệm lúc bé được một tháng tuổi cho thấy tải lượng vi-rút giảm đi nhanh chóng và gần như biến mất. Bé được tiếp tục điều trị cho đến 18 tháng tuổi và sau đó người mẹ ngừng đưa con đến bệnh viện, chấm dứt quá trình điều trị.

5 tháng sau, người mẹ đưa bé đến bệnh viện tái khám. BS. Gay lúc đó đã nghĩ rằng tải lượng vi-rút trong máu cháu bé chắc hẳn sẽ cao nhưng các xét nghiệm đều cho kết quả âm tính.

Nghi ngờ các kết quả bị sai lệch, bà chỉ định làm thêm vài xét nghiệm nữa. Bà nói: "Phải nói là quá ngạc nhiên, tất cả kết quả xét nghiệm đều âm tính".
BS. Gay lập tức liên lạc BS. Katherine Luzuriaga, một chuyên gia nghiên cứu miễn dịch của trường ĐH Massachusetts, cũng đồng thời là cộng sự của BS. Persaud trong dự án này (do amfAR, Quỹ nghiên cứu AIDS tài trợ) để ghi chép lại trường hợp này. Những người tham gia dự án nghiên cứu này tiếp tục tiến hành thêm vài xét nghiệm nữa đối với đứa bé. Họ chỉ phát hiện một tải lượng vi-rút rất thấp nhưng chúng không còn khả năng phát triển, thậm chí là gần như bị vô hiệu hóa.

Y văn thế giời từng ghi nhận vài trường hợp hiếm hoi, bao gồm một trường hợp được đăng trên Tạp chí Y khoa New England vào năm 1995, về khả năng 'tự mất hết' vi-rút trong cơ thể những đứa trẻ không hề được áp dụng phương pháp điều trị nào.
Tuy nhiên, những trường hợp này không được công bố rộng rãi do kỹ thuật xét nghiệm lúc đó còn nhiều hạn chế. BS. Joseph McCune, trường ĐH California, San Francisco cho rằng những trường hợp như vậy, cộng với ca mới nhất này cho thấy có thể hệ miễn dịch trẻ sơ sinh có cơ chế hoạt động khác biệt.

Một khả năng là các loại thuốc đã tiêu diệt vi-rút trước khi chúng kịp hình thành cơ chế 'reservoir' - tạm dịch tiềm ẩn - trong cơ thể trẻ. Hiện nay, nguyên nhân chủ yếu khiến bệnh HIV/AIDS không thể chữa khỏi là do vi-rút tồn tại dưới dạng tiềm ẩn trong cơ thể, khiến cho hệ miễn dịch không thể phát hiện và thuốc không có tác dụng. Khi ngưng điều trị bằng thuốc, vi-rút sẽ hoạt động trở lại.
BS. Anthony S. Fauci, GĐ Viện nghiên cứu Quốc gia về các bệnh truyền nhiễm và dị ứng cho biết: "Từ đây, có thể đi đến một lý thuyết là nếu chúng ta có thể can thiệp trước khi vi-rút hình thành cơ chế tiềm ẩn và làm suy yếu hệ thống miễn dịch của cơ thể, thì nhiều khả năng sẽ tiêu diệt được vi-rút và bệnh nhân không cần dùng thuốc nữa". Tuy nhiên, thực tế là ở người trưởng thành, hiếm khi người ta phát hiện sớm mình bị nhiễm bệnh.
BS. Steven Deeks, Giáo sư Y khoa của trường ĐH California, San Francisco lại cho rằng nếu vi-rút chưa kịp chuyển sang dạng tiềm ẩn, thì đây không thể gọi là điều trị được, dù xét về mặt câu chữ phương pháp này nghe có vẻ hợp lý.

Tuy nhiên, cũng như các chuyên gia khác, BS. Steven tin rằng kết quả này có thể mở ra một phương hướng mới trong việc chẩn đoán sớm và chữa trị kịp thời cho trẻ sơ sinh.

Tại Hoa Kỳ, lây nhiễm HIV từ mẹ sang con rất hiếm khi xảy ra - các chuyên gia cho rằng họ chỉ ghi nhận khoảng 200 trường hợp hoặc ít hơn mỗi năm - bởi vì các bà mẹ có nhiễm bệnh đều được điều trị ngay trong quá trình mang thai.
Nếu bà mẹ đã được điều trị trong suốt thai kỳ, trẻ sinh ra thường được chỉ định một loại thuốc dự phòng (AZT) trong vòng sáu tuần, song song với việc tầm soát. Với những trường hợp như đứa bé ở Mississippi, người mẹ không hề được điều trị trong quá trình mang thai, thì liệu pháp có thay đổi nhưng thông thường BS chỉ định hai loại thuốc mà thôi.

BS. Yvonne Bryson, Trưởng khoa nghiên cứu các bệnh truyền nhiễm ở nhũ nhi thuộc trường ĐH California, Los Angeles cho biết rằng phụ nữ ở các nước đang phát triển khó tiếp cận cơ hội điều trị trong quá trình mang thai. Cụ thể, ở Nam Phi và các nước châu Phi khác vốn thiếu các trang thiết bị và kỹ thuật xét nghiệm tiên tiến, trẻ do các bà mẹ nhiễm HIV sinh ra thường chỉ được xét nghiệm sau sáu tuần tuổi.

Còn BS. Bryson, cũng tham gia trong dự án Mississippi, nói rằng bà chắc chắn đứa bé đã nhiễm bệnh và cho rằng phát hiện này là "một trong những điều tuyệt vời nhất tôi từng biết đến".

Người ta sẽ còn cần nhiều nghiên cứu nữa để xem phương thức xét nghiệm và điều trị này có phát huy tác dụng đối với những đứa trẻ khác hay không. So với phương thức ghép tủy (chữa khỏi bệnh cho Timothy Brown) vốn phức tạp và nguy hiểm, phương thức điều trị Mississipi lại có phần đơn giản hơn và có thể trở thành quy chuẩn trong điều trị HIV/AIDS.

Tuy phương thức này sẽ khó áp dụng đại trà ở các nước ngèo, nhưng chi phí cho tổng thời gian điều trị từ 1-2 năm tính ra vẫn thấp hơn nhiều so với khoản tiền "cho trẻ uống thuốc kháng vi-rút suốt đời", theo lời Rowena Johnston, GĐ nghiên cứu của amfAR.